Xu Hướng 3/2023 # Văn Hóa – Định Nghĩa, Đặc Trưng, Chức Năng – Di Tích Lịch Sử – Văn Hoá Hà Nội # Top 4 View | Nhatngukohi.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Văn Hóa – Định Nghĩa, Đặc Trưng, Chức Năng – Di Tích Lịch Sử – Văn Hoá Hà Nội # Top 4 View

Bạn đang xem bài viết Văn Hóa – Định Nghĩa, Đặc Trưng, Chức Năng – Di Tích Lịch Sử – Văn Hoá Hà Nội được cập nhật mới nhất trên website Nhatngukohi.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

1. Định nghĩa Văn hóa

Từ “văn hóa” có rất nhiều nghĩa. Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa); theo nghĩa chuyên biệt chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn (văn hóa Đông Sơn)… Trong khi theo nghĩa rộng thì văn hóa hóa gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong lục, lối sống, lao động…

Phân tích các cách tiếp cận văn hóa phổ biến hiện nay (coi văn hóa như tập hợp, như hệ thông, như giá trị, như hoạt động, như kí hiệu, như thuộc tính nhân cách, như thuộc tính xã hội…), có thể xác định được 4 đặc trưng cơ bản mà tổng hợp lại, ta có thể nêu ra một định nghĩa văn hóa như sau:

Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động, thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội.

2. Các đặc trưng và chức năng của văn hóa

Văn hóa trước hết phải có tính hệ thống. Đặc trưng này cần để phân hiệt hệ thống với tập hợp nó giúp phát hiện những mối liên hệ mật thiết giữa các hiện tượng, sự kiện thuộc một nền văn hóa; phát hiện các đặc trưng, những quy luật hình thành và phát triển của nó.

Như có tính hệ thống mà văn hóa, với tư cách là một thực thể bao trùm mọi hoạt động của xã hội, thực hiện được chức năng tổ chức xã hội. Chính văn hóa thường xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện cần thiết để ưng phó vơi môi trường tự nhiên và xã hội của mình. Nó là nền tảng của xã hội – có lẽ chính vì vậy mà người Việt Nam ta dùng từ chỉ loại “nền” để xác định khái niệm văn hóa (nền văn hóa).

Đặc trưng quan trọng thứ hai của văn hóa là tính giá trị. Văn hóa theo nghĩa đen nghĩa là “trở thành đẹp, thành có giá trị”, tính giá trị cần để phân biệt giá trị với phi giá trị. Nó là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người.

Các giá trị văn hóa, theo muc đích cố thể chia thành giá trị vật chất (phục vụ cho nhu cầu vật chất) và giá trị tinh thần (phục vụ cho nhu cầu tinh thần), theo ý nghĩa có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thấm mĩ theo thời gian có thể phân hiệt các giá trị vĩnh cừu và giá trị nhất thời. Sự phân biệt các giá trị theo thời gian cho phép ta có đươc cái nhìn hiện chứng– và khách quan trong việc đánh giá tính giá trị của sự vật, hiện tượng; tránh được những xu hướng cực đoan – phủ nhận sạch trơn hoặc tán dương hết lời.

Vì vậy mà, về mặt đồng đại, cùng một hiện tượng có thể có giá trị nhiều hay ít tùy theo góc nhìn, theo bình diện được xem xét. Muốn kết luận một hiện tượng có thuộc phạm trù văn hóa hay không phải xem xét mối tương quan giữa các mức độ “giá trị” và “phi giá trị” của nó. về mặt lịch đại, cùng một hiện tượng sẽ có thể có giá trị hay không tùy thuộc vào chuẩn mực văn hóa cùa từng giai đoạn lịch sử. Áp dụng vào Việt Nam, việc đánh giá chế độ phong kiến, vai trò của Nho giáo, các triều đại nhà Hồ, nhà Nguyễn… đều đòi hỏi một tư duy biện chứng như thế.

Nhờ thường xuyên xem xét các giá trị mà văn hóa thực hiện được chức năng quan trọng thứ hai là chức năng điều chỉnh xã hội, giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân bằng động, không ngừng tự hoàn thiện và thích ứng với những biến đổi của môi trường, giúp định hướng các chuẩn mực, làm động lực cho sự phát triển của xã hội.

Đặc trưng thứ ha của văn hóa là tính nhân sinh. Tính nhân sinh cho phép phân biệt văn hóa như một hiện tượng xã hội (do con người sáng tạo, nhân tạo) với các giá trị tự nhiên (thiên tạo). Văn hóa là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người. Sự tác động của con người vào tự nhiên có thể mang tính vật chất (như việc luyện quặng, đẽo gỗ…) hoặc tinh thần (như truyền thuyết về các cảnh quan tự nhiên).

Do mang tính nhân sinh, văn hóa trở thành sợi dây nối liền con người với con người, nó thực hiện chức năng giao tiếp và có tác dụng liên kết họ lại với nhau. Nếu ngôn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn hóa là nội dung của nó.

Văn hóa còn có tính lịch sử. Nó cho phép phân biệt văn hóa như sản phẩm của một quá trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ với văn minh như sản phẩm cuối cùng, chỉ ra trình độ phát triển của từng giai đoạn. Tính lịch sử tạo cho văn hóa tính bề dày một chiều sâu, nó buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, tiến hành phân loại và phân bố lại các giá trị. Tính lịch sử được duy trì bằng truyền thống văn hóa. Truyền thông văn hóa là những giá trị tương đối ổn định (những kinh nghiêm tập thể) được tích lũy và tái tạo trong cộng đồng người qua không gian và thời gian, được đúc kết thành những khuôn mẫu xã hội và cố định hóa dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận…

Truyền thông văn hóa tồn tại nhờ giáo dục. Chức năng giáo dục là chức năng quan trọng thứ tư của văn hóa. Nhưng văn hóa thực hiện chức năng giáo dục không chỉ bằng những giá trị đã ổn định (truyền thống), mà còn bằng cả những giá trị đang hình thành. Hai loại giá trị này tạo thành một hệ thống chuẩn mực mà con người hướng tới. Nhờ nó mà văn hóa đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách (trồng người). Từ chức năng giáo dục, văn hóa có chức năng phái sinh là đảm bảo tính kế tục của lịch sử. Nó là một thứ “gien” xã hội di truyền phẩm chất con người lại cho các thế hệ mai sau.

Hits: 80389

Những Đặc Trưng Của Văn Hóa Việt Nam

Thứ tư, 16 Tháng 3 2016 09:16

(LLCT) – Văn hóa, đặc trưng của văn hóa không phải là phạm trù bất biến, mà luôn vận động, phát triển cùng với sự biến đổi của điều kiện tự nhiên và sự phát triển của xã hội loài người. Trong bối cảnh hội nhập khu vực và toàn cầu hóa cùng với sự tác động và nảy sinh của các yếu tố bên ngoài và nội tại xã hội Việt Nam, sự xung đột về hệ giá trị giữa văn hóa nông nghiệp – nông thôn truyền thống với văn hóa công nghiệp – đô thị hiện đại vẫn tiếp diễn. Những giải pháp phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong hiện tại và tương lai nhằm gìn giữ và phát triển 5 đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn.

1. Đặc trưng của văn hóa

Văn hóa luôn mang hai hàm nghĩa tĩnh và động. Xét từ góc độ tĩnh, thuộc tính bản chất nhất của văn hóa là tính “nội nguyên”(1), tức chỉ nguyên nhân nội tại, những phát sinh trong nội bộ văn hóa. Ngoài ra, văn hóa còn có tính giáo dục, thuộc tính căn bản và nổi bật, có chức năng làm cho sự phát triển của kinh tế và văn hóa có mối quan hệ nội tại tự nhiên và sâu sắc.

Ở Trung Quốc, từ thời cổ đại, văn hóa được xem là “văn tự và giáo hóa”. Ở phương Tây, từ “văn hóa”(Culture) bắt nguồn từ tiếng Latinh, nghĩa gốc là trồng trọt, nuôi dưỡng, luyện tập, khai khẩn, khai phát. Vì thế, ở phương Đông hay phương Tây, văn hóa đều biểu trưng cho hoạt động của loài người và đều coi trọng nghĩa từ nguyên của văn hóa là mang tính giáo dục. Tính giáo dục của văn hóa được thể hiện chủ yếu thông qua sự kế thừa và truyền bá. Văn hóa là sự ngưng tụ tri thức và kỹ năng của loài người, truyền bá, kế thừa, học tập lẫn nhau từ đời này qua đời khác.

Xét từ góc độ động, thuộc tính bản chất và công năng của văn hóa thể hiện trước hết là ở tính thực tiễn của văn hóa. Trong tác phẩm Phê phán kinh tế chính trị học, C.Mác viết: “Giới tự nhiên không thể sáng tạo ra bất kỳ máy móc, đầu máy, điện thoại, máy dệt tự động v.v.. Tất cả những cái đó đều là sản vật do nền công nghiệp của loài người sáng tạo ra. Sự thay đổi vật chất của tự nhiên là do ý chí của loài người chế ngự tự nhiên hoặc bộ máy hoạt động của loài người điều khiển giới tự nhiên. Tất cả những điều đó đều do trí tuệ và bàn tay con người sáng tạo nên và nó đều là trí lực của vật hóa”(2). Chỗ sâu sắc nhất trong quan điểm văn hóa của C.Mác thể hiện trong việc tác giả đã khảo sát thuộc tính bản chất và công năng của văn hóa từ hoạt động thực tiễn của con người hiện thực. Trong nhiều tác phẩm về triết học, kinh tế học của C.Mác, chúng ta được biết rằng, những người tham gia vào lĩnh vực hoạt động văn hóa và sáng tạo văn hóa không phải là những con người trừu tượng mà là những con người lịch sử, những con người hiện thực, con người cụ thể, con người thực tiễn, con người xã hội. Tính thực tiễn của văn hóa chính là “nhân hóa”. Con người là tác giả sáng tạo văn hóa, là chủ thể của quá trình hoạt động lịch sử văn hóa.

C.Mác chỉ rõ, mọi hoạt động văn hóa của loài người trước hết thuộc về lao động vật chất cảm tính, tôn giáo, gia đình, nhà nước, luật pháp, đạo đức, khoa học, nghệ thuật v.v.. đều là phương thức đặc thù của sản xuất, hơn nữa, còn thực sự chi phối quy luật phổ biến của sản xuất. Như vậy, lao động, thực tiễn v.v.. những hoạt động tự giác có ý thức, có mục đích của loài người đã xác nhận rõ “sự tồn tại loài” của con người, đó chính là nguồn gốc bản chất chân thực của con người và là nguồn gốc bản chất của văn hóa. Lao động sản xuất vật chất là hình thức cơ bản của hoạt động thực tiễn của loài người. Trong quá trình đó, con người phải dựa vào tự nhiên, chịu sự chế ước của hoàn cảnh tự nhiên, mặt khác, không ngừng chinh phục tự nhiên, cải tạo tự nhiên, sáng tạo tự nhiên vì mục đích, yêu cầu của chính loài người. Yếu tố tích cực – sức sản xuất xã hội – trong hoạt động thực tiễn của sản xuất vật chất không những là sáng tạo tự nhiên của con người (tức thế giới vật chất mà con người yêu cầu), mà còn tạo nên tính đa dạng, phong phú của chính con người, thể hiện trong mối quan hệ của con người với tự nhiên và xã hội. Ý nghĩa và giá trị chân chính của sản phẩm lao động không những chỉ đáp ứng nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại của con người để giữ mối liên hệ với việc tái sản xuất của chính con người, mà còn thể hiện những sáng tạo thiên bẩm, sự thông minh tài trí, sức mạnh, dũng khí, tình yêu, cảm hứng, kỹ năng, kinh nghiệm, tri thức, sự giao lưu của tinh thần, những niềm vui và mỹ cảm mà con người từng phát huy, từng sáng tạo, từng đạt được trong quá trình sản xuất. Do đó, hoạt động thực tiễn căn bản nhất của lao động loài người bao gồm cả những hoạt động sáng tạo văn hóa: sáng tạo tự nhiên – xã hội – con người, những sáng tạo tinh hoa của văn minh tinh thần nhân loại như nghệ thuật, tôn giáo, triết học v.v.. Văn hóa vốn có bản chất thực tiễn, nó quyết định công năng lịch sử xã hội một cách cơ bản nhất, nó tham dự năng động, tự giác, sáng tạo và ảnh hưởng đến công năng bản chất của hoạt động kinh tế. Thuộc tính kinh tế và công năng của văn hóa là sự thể hiện tập trung nhất tính thực tiễn của văn hóa.

Hoạt động lịch sử của xã hội loài người phù hợp với bản chất thực tiễn của văn hóa, làm cho nó có được những tính chất và công năng của lực lượng sản xuất. Bởi vậy, văn hóa có tác dụng trực tiếp đến giới tự nhiên và việc xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội.

Với bản chất thực tiễn và công năng đối với hoạt động kinh tế, văn hóa là một lực lượng sản xuất, thể hiện ở những điểm sau:

Một là, văn hóa là một loại sức sản xuất đặc thù. Tính đặc thù của nó thể hiện ở chỗ, văn hóa ảnh hưởng và chế ước các hoạt động kinh tế một cách tích cực, năng động bằng các hiệu năng tổng hợp các quan niệm, hành vi, và trên một mức độ nhất định, đã trở thành lực lượng cấu thành nội tại của hoạt động kinh tế.

Lao động sản xuất của loài người gồm hai dạng lớn: lao động vật chất và lao động tinh thần. Lao động tinh thần là một trong những hoạt động thực tiễn cơ bản và quan trọng nhất của loài người. Thực tiễn lao động sản xuất của loài người là những hoạt động có ý thức, có mục đích, tức là sự thống nhất giữa lao động chân tay và lao động trí tuệ. Mọi hoạt động sản xuất của con người là những hành vi được tiến hành dưới sự chi phối của tư tưởng, ý thức, quan niệm trên cơ sở những điều kiện khoa học và kỹ thuật nhất định. Và tất cả những điều trên không thể tách rời cơ sở văn hóa và bối cảnh văn hóa nhất định. Với tư cách là một mô thức đã định của quan niệm và hành vi, văn hóa thẩm thấu và phát huy tác dụng của nó một cách sâu sắc xuyên suốt toàn bộ quá trình lao động vật chất và lao động tinh thần của con người.

Hai là, văn hóa và sức sản xuất có mối quan hệ biện chứng. Lịch sử phát triển xã hội đã chứng minh rằng, sức sản xuất cùng một lúc giải quyết được sự biến đổi vật chất giữa con người và mang hình thái vật hóa thâm nhập sâu vào quá trình biến đổi của tinh thần con người, bao trùm là hệ thống quan niệm, giá trị và các dạng thức, hành vi của văn hóa, thúc đẩy văn hóa phát triển, mở rộng. Vì thế, văn hóa và sức sản xuất trong toàn bộ thực tiễn xã hội chủ yếu là trong hoạt động kinh tế, chúng luôn thẩm thấu, thúc đẩy lẫn nhau và luôn đạt được sự thống nhất nội tại. Xét từ quan điểm sức sản xuất lớn thì văn hóa là sức sản xuất. Xét từ quan điểm đại văn hóa thì sức sản xuất cũng là văn hóa.

Từ những luận giải trên, các nhà nghiên cứu về văn hóa trong và ngoài nước đã đúc kết thành nhiều đặc trưng của văn hóa, trong đó nổi bật bốn đặc trưng cơ bản sau:

Thứ nhất, tính hệ thống. Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị về văn hóa vật chất, xã hội và tinh thần của cộng đồng người. Từ những thành tố căn bản này đã nảy sinh và bao gồm những tập hợp nhỏ nhiều tầng bậc khác nhau tạo thành một tổng thể phức tạp, phong phú.

Thứ hai, tính giá trị. Văn hóa bao gồm các giá trị (giá trị vật chất và giá trị tinh thần) trở thành thước đo về mức độ nhân bản của xã hội và con người. Trong lịch sử phát triển của nhân loại có giá trị của văn hóa để tồn tại và có giá trị của văn hóa để phát triển.

Thứ ba, tính lịch sử. Văn hóa bao giờ cũng được hình thành qua một quá trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ, là những thành tựu do cộng đồng người trong quá trình tương tác với môi trường tự nhiên – xã hội sáng tạo và luôn hướng tới sự hoàn thiện để đạt đến tính giá trị.

Thứ tư, tính nhân sinh. Văn hóa là hiện tượng thuộc về xã hội loài người, gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người, là những giá trị do một cộng đồng người sáng tạo ra, thuộc về con người, ở trong con người và mang dấu ấn người. Điều đó cho thấy, con người vừa là chủ thể của văn hóa, đồng thời là khách thể của văn hóa, lại vừa là sản phẩm văn hóa.

2. Điều kiện hình thành và những đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam

Văn hóa vốn là một hoạt động thuộc thế giới người nói chung và cũng là đặc trưng của mỗi cộng đồng người nói riêng. Nó là điều kiện sinh tồn của mỗi một con người, đồng thời cũng là thành tựu của từng tộc người và là cái để phân biệt giữa cộng đồng người này với cộng đồng người khác, là tấm “chứng minh thư” để xác định cá tính của từng dân tộc trong cộng đồng nhân loại, là “tấm giấy thông hành” giúp các quốc gia dân tộc cùng ngồi đàm phán, là thông điệp đưa các dân tộc xích lại gần nhau, là cơ sở, là nền tảng, là trụ cột, là sức mạnh quan trọng đối với sự phát triển bền vững của xã hội.

Văn hóa với tiềm lực, sức sống và thực lực độc đáo của mình, biểu hiện và tỏ rõ sức mạnh tổng hợp của đất nước.

Cội nguồn của những đặc điểm, đặc trưng văn hóa dân tộc cố nhiên phải tìm trong những điều kiện lịch sử của dân tộc. Nhưng trước đó, và trong suốt quá trình lịch sử, những điều kiện địa lý có ảnh hưởng đến phương thức canh tác, hình thái kinh tế – xã hội – chính trị. Văn hóa là sự trả lời, sự ứng phó của cộng đồng cư dân trước những thành thức của điều kiện địa lý – khí hậu và xã hội – lịch sử. Bởi vậy, khi bàn đến nét riêng biệt – cái đặc trưng của văn hóa Việt Nam, phải tìm đến cội nguồn của nó từ thời đại đá mới, thời đại phát sinh nông nghiệp và làng xóm, phải chú ý đến những điều kiện nền tảng địa lý và môi trường thiên nhiên đã sản sinh nên những đặc trưng, đặc điểm văn hóa ấy. Xét về mặt thiên nhiên, văn hóa Việt Nam khởi thủy cùng chung trong khu vực Đông Nam Á. Khởi thủy, không gian địa lý tự nhiên Đông Nam Á bao gồm khu vực sông Trường Giang kéo dài về phương Nam, khu vực phía Nam dải Tần Lãnh và khu vực Atxam hiện tại. Môi trường thiên nhiên ở đây nảy sinh và phát triển văn hóa nông nghiệp lúa nước.

Về mặt nhân chủng, đến giữa thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên, về cơ bản, vùng Bách Việt (Việt – Mường) là vùng phi Hoa, phi Ấn. Khi Trung Quốc bành trướng xuống lưu vực sông Trường Giang, Việt Nam và Trung Quốc có sự khác nhau căn bản: Việt Nam là vùng châu Á gió mùa, Trung Quốc là vùng châu Á đại lục, Việt Nam là vùng nông nghiệp lúa nước, Trung Quốc là vùng nông nghiệp khô ( trồng kê, cao lương, lúa mạch) và vùng Bách Việt co lại dần, chỉ còn lại Việt Nam – đại biểu duy nhất còn sót lại của phức hợp Bách Việt ngày xưa, tồn tại vừa với tính chất Dân tộc – Nhà nước (Nation- Etat), vừa với tính chất Dân tộc – Nhân dân (Nation – People). Từ đó xuất hiện trên thực tiễn những cái bất dị giữa Việt Nam và Trung Quốc(3).

Việt Nam – Đông Nam Á là vùng thiên nhiên phong phú, thống nhất nhưng đa dạng, do đó, văn hóa bản địa phong phú, đa dạng trong sự thống nhất. Trào lưu lịch sử cùng với việc tiếp thu các nhân tố ngoại sinh từ Ấn Độ, Trung Hoa, phương Tây, những nền văn hóa của vùng càng đa dạng và càng có xu hướng phủ mờ cái gốc – văn hóa bản thể, văn hóa nội sinh trong vùng.

Do điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội và lịch sử hình thành quốc gia dân tộc, văn hóa Việt Nam sớm có xu thế giao lưu, hội nhập, tiếp biến, nhờ thế Việt Nam có nền văn hóa đa ngôn ngữ, giàu bản sắc. Nền văn minh Đại Việt được xếp là một trong 34 nền văn minh đầu tiên của nhân loại. Nhiều học giả thống nhất rằng, bản sắc văn hóa Việt Nam được tạo ra ở vùng lúa nước sông Hồng cách đây hơn 4 nghìn năm, được tôi luyện và khẳng định trong 2 nghìn năm chống và đối thoại với Trung Quốc đã đủ tầm cỡ để tiếp biến văn hóa thành công. Trong suốt chiều dài lịch sử hơn 400 năm tiếp biến văn hóa Việt Nam với phương Tây dưới nhiều hình thức, vừa có cưỡng bức, vừa có đối thoại văn hóa, có thời điểm vừa chống lại, vừa tiếp thu, nhưng văn hóa Việt Nam vẫn vừa giữ được bản sắc dân tộc, vừa hiện đại hóa.

Văn hóa Việt Nam có những nét mang tính đặc trưng phổ biển của văn hóa nói chung và có những đặc trưng riêng biệt, đặc thù. Những đặc trưng cơ bản riêng biệt này được hình thành, đúc kết, bảo lưu, phát triển từ điều kiện địa lý tự nhiên, lịch sử, chính trị – kinh tế – xã hội của Việt Nam. Nhiều học giả, nhà nghiên cứu chuyên ngành Việt Nam học, Văn hóa học, Văn hóa Việt Nam đã có nhiều ý kiến đa chiều về đặc trưng văn hóa Việt Nam, tạo nên bức tranh phong phú, nhiều màu sắc, đôi khi là tương phản, nhưng tổng hợp lại, văn hóa Việt Nam có những nét chung tương đối khái quát, thể hiện ở 5 đặc trưng sau:

Một là, tính cộng đồng làng xã, thể hiện rõ ở 6 phẩm chất: Tính đoàn kết, giúp đỡ; Tính tập thể thương người; Tính dân chủ, làng xã; Tính trọng thể diện; Tình yêu quê hương, làng xóm; Lòng biết ơn. Bên cạnh những phẩm chất tốt, tính cộng đồng làng xã cũng để lại nhiều tật xấu trong văn hóa: Thói dựa dẫm; Thói cào bằng, chụp mũ; Bệnh sĩ diện, háo danh; Bệnh thành tích; Bệnh phong trào; Bệnh hình thức v.v..

Hai là, tính trọng âm. Bảy phẩm chất tốt được biểu hiện trong tính trọng âm là: Tính ưa ổn định; Tính hiền hòa, bao dung; Tính trọng tình, đa cảm; Thiên hướng thơ ca; Sức chịu đựng, nhẫn nhịn; Lòng hiếu khách. Bên cạnh đó, tính trọng âm cũng là mảnh đất hình thành những bệnh xấu như: Bệnh thụ động, khép kín; Bệnh lề mề, chậm chạp; Bệnh tủn mủn, thiếu tầm nhìn; Bệnh sùng ngoại v.v..

Ba là, tính ưa hài hòa, thể hiện ở bốn phẩm chất: Tính mực thước; Tính ung dung; Tính vui vẻ, lạc quan; Tính thực tế. Tuy nhiên, tính ưa hài hòa cũng gây mặt hạn chế, như: Bệnh đại khái, xuề xòa; Bệnh dĩ hòa vi quý; Bệnh trung bình chủ nghĩa; Bệnh nước đôi, thiếu quyết đoán…

Bốn là, tính kết hợp, thể hiện ở hai khả năng: Khả năng bao quát tốt; Khả năng quan hệ tốt. Mặt trái của tính kết hợp này cũng tạo ra những hậu quả xấu như: Thói hời hợt, thiếu sâu sắc; Bệnh sống bằng quan hệ…

Năm là, tính linh hoạt. Biểu hiện của tính linh hoạt được thể hiện ở 2 phẩm chất tốt: Khả năng thích nghi cao; Tính sáng tạo. Tính linh hoạt nhiều khi cũng dẫn đến hậu quả xấu như: Thói tùy tiện, cẩu thả; Bệnh thiếu ý thức pháp luật…

Tổng hợp 5 đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam ta thấy phẩm chất, giá trị cốt lõi tốt nhất là lòng yêu nước; tinh thần dân tộc; lòng nhân ái, thương người; tính cộng đồng làng xã; tính tinh tế.

Văn hóa, đặc trưng của văn hóa không phải là phạm trù bất biến, mà luôn vận động, phát triển cùng với sự biến đổi của điều kiện tự nhiên và sự phát triển của xã hội loài người. Trong bối cảnh hội nhập khu vực và toàn cầu hóa cùng với sự tác động và nảy sinh của các yếu tố bên ngoài và nội tại xã hội Việt Nam, sự xung đột về hệ giá trị giữa văn hóa nông nghiệp – nông thôn truyền thống với văn hóa công nghiệp – đô thị hiện đại vẫn tiếp diễn. Những năm gần đây, nhiều nhà khoa học đã và đang tập trung nghiên cứu, đề xuất nhiều hướng đi, nhiều giải pháp phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong hiện tại và tương lai với mong muốn 5 đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam sẽ được bảo tồn và dịch chuyển theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn. Một số đề tài đã được công bố, trong đó nổi bật là đề tài cấp Nhà nước “Hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” thuộc chương trình Khoa học và Công nghệ trọng điểm KX-04/11-15 Nghiên cứu khoa học lý luận chính trị giai đoạn 2011-2015 do GS,TSKH Trần Ngọc Thêm làm Chủ nhiệm. Trong đề tài này, khi bàn về đặc trưng văn hóa Việt Nam, tác giả đề xuất chuyển đổi đặc trưng văn hóa Việt Nam đến năm 2030 theo hướng sau:

Đặc trưng 1: Tính cộng đồng làng xã nên chuyển thành Tính cộng đồng xã hội.

Đặc trưng 2: Tính trọng âm và Đặc trưng 3: Tính ưa hài hòa nên chuyển thành Tính hài hòa thiên về dương tính.

Đặc trưng 4: Tính kết hợp nên chuyển thành Tác phong công nghiệp.

Đặc trưng 5: Tính linh hoạt nên chuyển thành Tính linh hoạt trong nguyên tắc(4).

Hiện tại và tương lai sẽ còn nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu vấn đề này. Những đề xuất của họ sẽ được thực tiễn cuộc sống kiểm nghiệm, lựa chọn nhằm phục vụ mục đích cao cả là xây dựng nền Văn hóa Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân, thiện, mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Xây dựng văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 7-2015

(1) Nội nguyên (Endogenesis) là khái niệm trong sinh vật học, vốn chỉ sự hình thành bên trong cơ thể tế bào sinh vật. Chúng tôi dùng khái niệm này để chỉ sự hình thành và vận động bên trong của văn hóa, nền văn hóa.

(2) C.Mác: Phê phán kinh tế chính trị học, t.3 (1857-1859), Nxb Nhân dân, 1963, tr.358.

(4) Xem Trần Ngọc Thêm (chủ biên): Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện tại, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2015, tr.56-77.

PGS, TS Lê Văn Toan

Trung tâm nghiên cứu Ấn Độ,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

6 Đặc Trưng Trong Văn Hoá Giao Tiếp Của Người Việt

Cẩm nang nghề nghiệp

Văn hoá giao tiếp là gì?

Tìm ra một định nghĩa minh bạch cho một khái niệm thuộc lĩnh vực khoa học xã hội& nhân văn quả là rất khó. Ở đây chỉ có thể đưa ra cái gọi là định nghĩa ấy thay bằng quan niệm của mỗi người. Văn hóa giao tiếp là một bộ phận trong tổng thể văn hóa nhằm chỉ quan hệ giao tiếp có văn hóa của mỗi người trong xã hội (giao tiếp một cách lịch sự, thái độ thân thiện, cởi mở, chân thành, thể hiện sự tôn trọng nhau), là tổ hợp của các thành tố: lời nói, cử chỉ, hành vi, thái độ, cách ứng xử…

Đặc trưng giao tiếp cơ bản của người Việt Nam

1. Xét về thái độ đối với việc giao tiếp, có thể thấy đặc điểm của người Việt Nam là vừa thích , lại vừa rất rụt rè.

Như đã nói, người Việt Nam nông nghiệp sống phụ thuộc lẫn nhau và rất coi trọng việc giữ gìn các mối quan hệ tốt với mọi thành viên trong cộng đồng, chính tính cộng đồng này là nguyên nhân khiến người Việt Nam đặc biệt coi trọng việc giao tiếp, và do vậy rất thích giao tiếp. Việc thích giao tiếp này thể hiện chủ yếu ở hai đặc điểm:

– Từ góc độ của chủ thể giao tiếp thì người Việt Nam có tính thích thăm viếng. Đã thân nhau, thì cho dù hàng ngày có gặp nhau bao nhiêu lần chăng nữa, lúc rảnh rỗi họ vẫn tới thăm nhau. Thăm viếng không còn là nhu cầu công việc (như ở phương Tây) mà là biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa, có tác dụng thắt chặt thêm quan hệ.

– Với đối tượng giao tiếp thì người Việt Nam có tính hiếu khách. Có khách đến nhà, dù quen hay lạ, thân hay sơ, người Việt dù nghèo khó đến đâu cũng cố gắng tiếp đón chu đáo và tiếp đãi thịnh tình, dành cho khách các tiện nghi tốt nhất, đồ ăn ngon nhất: Khách đến nhà chẳng gà thì gỏi, bởi lẽ đói năm, không bằng đói bữa. Tính hiếu khách này càng tăng lên khi ta về những miền quê hẻo lánh, những miền rừng núi xa xôi.

Đồng thời với việc thích giao tiếp, người Việt Nam lại có đặc tính hầu như ngược lại là rất rụt rè – điều mà những người quan sát nước ngoài rất hay nhắc đến. Sự tồn tại đồng thời của hai tính cách trái ngược nhau (thích giao tiếp và rụt rè) này bắt nguồn từ hai đặc tính cơ bản của làng xã Việt Nam là tính cộng đồng và tính tự trị. Khi đang ở trong phạm vi của cộng đồng quen thuộc, nơi tính cộng đồng ngự trị thì người Việt Nam sẽ tỏ ra xởi lởi, thích giao tiếp. Còn khi ở ngoài cộng đồng, trước những người lạ, nơi tính tự trị phát huy tác dụng thì người Việt Nam sẽ tỏ ra rụt rè. Hai tính cách tưởng như trái ngược nhau ấy ko hề mâu thuẫn với nhau vì chúng bộc lộ trong những môi trường khác nhau, chúng chính là hai mặt của cùng một bản chất, là biểu hiện cho cách ứng xử linh hoạt của người Việt Nam. Tham khảo chương trình đào tạo kỹ năng giao tiếp ứng xử:

2. Đặc điểm trọng tình nghĩa ghi dấu trong văn hoá giao tiếp của người Việt

Xét về quan hệ giao tiếp, văn hóa nông nghiệp với đặc điểm trọng tình đã dẫn người Việt Nam tới chỗ lấy tình cảm làm nguyên tắc ứng xử:Yêu nhau yêu cả đường đi/ ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng; Yêu nhau cau sáu bổ ba/ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười; Yêu nhau chín bỏ làm mười; Yêu nhau củ ấu cũng tròn/ghét nhau quả bồ hòn cũng méo; Yêu nhau mọi việc chẳng nề/một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng…

Nếu nói khái quát, người Việt Nam lấy sự hài hòa âm dương làm trọng nhưng vẫn thiên về âm hơn, thì trong cuộc sống, người Việt Nam sống có lý có tình nhưng vẫn thiên về tình hơn: Một bồ cái lý không bằng một tý cái tình. Người Việt Nam luôn coi trọng tình cảm hơn mọi thứ trên đời. Ai nhớ mình một chút đều phải nhớ ơn, ai bảo ban một chút cũng phải tôn làm thầy – khái niệm “thầy” được mở ra rất rộng: thầy đồ, thầy võ, thầy thuốc, thầy bói, thầy cúng, thầy địa lý, thầy phù thủy…

3. Với đối tượng giao tiếp, người Việt Nam có thể quen ưa tìm hiểu, quan sát, đánh giá…

Tuổi tác, quê quán, trình độ học vấn, địa vị xã hội, tình trạng gia đình (bố mẹ còn hay mất, đã có vợ/ chồng chưa, có con chưa, mấy trai mấy gái…) là những vấn đề người Việt Nam thường quan tâm. Thói quen ưa tìm hiểu này khiến cho người nước ngoài có nhận xét là người Việt Nam hay tò mò. Đặc tính này – dù gọi bằng tên gì đi nữa – chẳng qua cũng chỉ là một sản phẩm của tính cộng đồng làng xã mà ra.

Do tính cộng đồng, người Việt Nam tự thấy có trách nhiệm phải quan tâm đến người khác, mà muốn quan tâm thì phải biết rõ hoàn cảnh. Mặt khác, do lối sống trọng tình cảm, mỗi cặp giao tiếp đều có những cách xưng hô riêng, nên nếu không có đủ thông tin thì không thể lựa chọn từ xưng hô cho thích hợp được. Biết tính cách, biết người để lựa chọn từ xưng hô cho phù hợp: Chọn mặt gửi vàng; Tùy mặt gửi lời/tùy người gửi của. Khi không được lựa chọn thì người Việt Nam dùng chiến lược thích ứng một cách linh hoạt: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài; Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy.

4. Tính cộng đồng trong văn hoá giao tiếp của người Việt

Tính cộng đồng còn khiến người Việt Nam, dưới góc độ chủ thể giao tiếp, có đặc điểm là trọng danh dự: Tốt danh hơn lành áo; Đói cho sạch, rách cho thơm; Trâu chết để da, người ta chết để tiếng. Danh dự gắn với năng lực giao tiếp: Lời hay nói ra để lại dấu vết, tạo thành tiếng tăm; lời dở truyền đến tai nhiều người, tạo nên tai tiếng

Chính vì quá coi trọng danh dự nên người Việt Nam mắc bệnh sĩ diện: Ở đời muôn sự của chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi; Đem chuông đi đấm nước người, không kêu cũng đánh ba hồi lấy danh; Một quan tiền công không bằng một đồng tiền thưởng. Ở làng quê, thói sỹ diện thể hiện trầm trọng qua tục lệ ngôi thứ nơi đình ttrung và tục chia phần. Do danh dự (sỹ diện), các cụ già vẫn có thể to tiếng nhau vì miếng ăn: Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp. Lối sống trọng danh dự dẫn đến cơ chế tạo tin đồn, tạo nên dư luận như một thứ vũ khí lợi hại bậc nhất của cộng đồng để duy trì sự ổn định của làng xã.

5. Về cách thức giao tiếp, người Việt Nam ưa sự tế nhị, ý tứ và trọng sự hòa thuận

Tính tế nhị khiến cho người Việt Nam có thói quen giao tiếp “v òng vo tam quốc “, không bao giờ mở đầu tực tiếp, đi thẳng vào đề như người phương Tây. Truyền thống Việt Nam khi bắt đầu giao tiếp là phải xấn xá cầu điền, hỏi thăm nhà cửa ruộng vườn. Cũng để đưa đẩy tạo không khí là truyền thống miếng trầu là đầu câu chuyện. Với thời gian, chức năng “mở đầu câu chuyện” này của “miếng trầu” được thay thế bởi chén trà, điều thuốc lá…

Lối giao tiếp ưa tế nhị, ý tứ là sản phẩm của lối sống trọng tình và lối tư duy trong các mối quan hệ. Nó tạo nên thói quen đắn đo cân nhắc kỹ càng khi nói năng: Ăn có nhai, nói có nghĩ; Chó ba quanh mới nằm, người ba năm mới nói; Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe; Người khôn ăn nói nửa chừng, để cho người dại nửa mừng nửa lo… Chính sự đắn đo cân nhắc này khiến cho người Việt Nam có nhược điểm là thiếu tính quyết đoán, nhưng đồng thời giữ được sự hòa thuận, không làm mất lòng ai.

6. Người Việt có hệ thống nghi thức lời nói rất phong phú

Trước hết, đó là sự phong phú của hệ thống xưng hô: trong khi các ngôn ngữ phương Tây và Trung Hoa chỉ sử dụng các đại từ nhân xưng thì tiếng Việt còn sử dụng một số lượng lớn các danh từ chỉ quan hệ họ hàng để xưng hô, và những danh từ thân tộc này có xu hướng lấn át các đại từ nhân xưng. Hệ thống xưng hô này có các đặc điểm:

– Thứ nhất, có tính chất thân mật hóa (trọng tình cảm), coi mọi người trong cộng đồng như bà con họ hàng trong một gia đình.

– Thứ hai, có tính chất cộng đồng hóa cao – trong hệ thống này không có những từ xưng hô chung mà phụ thuộc vào tuổi tác, địa vị xã hội, thời gian, không gian giao tiếp cụ thể: chú khi ni, mi khi khác. Cùng là hai người, cách xưng hô có kkhi thể hiện được hai quan hệ khác nhau: chú-con, ông-con, bác-em, anh-tôi… Lối gọi nhau bằng tên con, tên cháu, tên chồng; bằng thứ tự sinh (Cả, Hai, Ba, Tư…)

– Thứ ba, thể hiện tính tôn ti kỹ kưỡng: người Việt Nam xưng và hô theo nguyên tắc xưng khiêm hô tôn (gọi mình thì khiêm nhường, còn gọi đối tượng giao tiếp thì tôn kính). Cùng một cặp giao tiếp, nhưng có khi cả hai cùng xưng là em và cùng gọi nhau là chị. Việc tôn trọng, đề cao nhau dẫn đến tục kiêng tên riêng: xưa kia chỉ gọi đến tên riêng khi chửi nhau; đặt tên con cần nhất là không được trùng tên của những người bề trên trong gia đình, gia tộc cũng như ngoài xã hội. Vì vậy mà người Việt Nam trước đây có tục nhập gia vấn húy (vào nhà ai phải hỏi tên chủ nhà để khi nói nếu có động đến từ đó thì phải nói chệch đi).

Nghi thức trong cách nói lịch sự cũng rất phong phú. Do truyền thống tình cảm và linh hoạt nên người Việt Nam không có một từ cảm ơn, xin lỗi chung chung cho mọi trường hợp như phương Tây. Với mỗi trường hợp có thể có một cách cảm ơn, xin lỗi khác nhau: Con xin chú (cảm ơn khi nhận quà), Chị chu đáo quá(cảm ơn khi được quan tâm), Bác bày vẽ quá (cảm ơn khi được đon tiếp), Quý hóa quá (cảm ơn khi khách đến thăm), Anh quá khen (cảm ơn khi được khen),Cháu được như hôm nay là nhờ cô đấy (cảm ơn khi được giúp đỡ)…

Văn hóa nông nghiệp ưa ổn định, sống chú trọng đến không gian nên người Việt Nam phân biệt kỹ các lời chào theo quan hệ xã hội và theo sắc thái tình cảm. Trong khi đó văn hóa phương Tây ưa hoạt động lại phân biệt kỹ các lời chào theo thời gian như chào gặp mặt, chào chia tay, chào buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, buổi tối…

Giáo dục văn hoá giao tiếp trong học đường

Giáo dục văn hóa giao tiếp trong nhà trường không nên chỉ bó hẹp trong phạm vi nhà trường (tất nhiên nhà trường chịu trách nhiệm chính) mà còn phải mở rộng phạm vi từ gia đình đến xã hội. Ngay từ nhỏ, gia đình đã có vai trò rất lớn trong việc hình thành văn hóa giao tiếp cho con cháu. Ông, bà, cha mẹ là những thầy cô giáo đầu tiên hướng dẫn cách giao tiếp có văn hóa cho con, cháu (đi chào, về hỏi, gọi dạ, bảo vâng một cách có lễ phép).

Bài học vào đời ấy sẽ được tiếp tục củng cố và phát triển thêm với những nội dung phong phú, mức độ cao hơn ở các bậc học tiếp theo. Phải thấy rằng giáo dục văn hóa giao tiếp là không hề giới hạn bởi cấp học nào, bởi thời gian, không gian nào mà cần phải được tiến hành ở tất cả các bậc học, ở mọi lúc, mọi nơi, phải tiến hành một cách đồng bộ, nhất quán, tiến hành có nội dung, có kế hoạch, có phương pháp và thật kiên trì thì mới có hiệu quả.

Nếu thiếu nhất quán sẽ xảy ra tình trạng ” trống đánh xuôi, kèn thổi ngược ” thì sẽ phản tác dụng. Không thiếu trường hợp ở nhà, ở trường thì “con ngoan, trò giỏi”, ra ngoài xã hội lại vi phạm đạo đức, pháp luật. Phải chăng đó một phần là do tình trạng giáo dục không đồng bộ, nhất quán, thiếu sự giám sát chặt chẽ. Vì vậy sự liên kết, phối hợp trong giáo dục là rất quan trọng.

Theo Nguồn Cuộc Sống Việt _ Theo Sách Cơ sở Văn hóa Việt Nam (Trần Ngọc Thêm)

Nón Lá – Một Biểu Tượng Đặc Trưng Của Văn Hóa Việt

Từ bao đời nay, chiếc nón lá đã trở nên gần gũi, thân thuộc với mỗi người dân Việt Nam. Hình ảnh chiếc nón lá mộc mạc, duyên dáng không chỉ là vật dụng che nắng, che mưa mà còn chứa đựng nét văn hóa độc đáo và đi vào nhiều bài thơ, bài ca Việt Nam. Chiếc nón lá góp phần tạo nên vẻ đẹp duyên dáng và trở thành biểu tượng cho sự dịu dàng, bình dị, thân thiện của người phụ nữ Việt Nam từ ngàn đời nay.

Từ xa xưa do chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa nắng lắm mưa nhiều, người dân Việt đã biết lấy lá kết vào nhau để làm vật dụng đội lên đầu che nắng che mưa. Dần dần chiếc nón lá đã hiện diện như một vật dụng cần thiết trong đời sống sinh hoạt hằng ngày. Nón lá được làm từ những nguyên liệu đơn giản và sẵn có như lá cọ, lá nón, tre,… Nhưng qua bàn tay khéo léo của những nghệ nhân, chiếc nón lá đã trở thành một một biểu tượng của nhiều làng nghề truyền thống trong hàng thế kỷ qua.

Ảnh: Nguồn Internet

Nón lá có rất nhiều loại, nón quai thao, nón bài thơ, nón lá mỗi loại mang những hình dạng nhất định, cấu tạo khác nhau nhưng đều rất công phu và kĩ lưỡng. Để tạo ra một chiếc nón lá đẹp đòi hỏi bàn tay công phu, khéo léo của người làm. Làm nón phải tỉ mỉ từ khâu đầu tiên là chọn lá, phơi lá. Nguyên liệu làm nón thường là lá cọ, lá buông – một loại lá họ hàng với lá cọ (thường mọc ở vùng đồi núi trung du). Lá làm nón không được quá non cũng như không quá già. Trước khi đưa vào làm nón, lá phải được phơi nắng cho thật khô, thật mềm và giữ được lâu. Lá nón màu trắng sữa, gân lá màu xanh nhẹ, lá bóng mướt là đẹp nhất. Lá nón thường được khai thác ở vùng đồi núi Phú Thọ, Vĩnh Phúc hay vùng đồi núi Việt Bắc, Trường Sơn, Tây Bắc. Sau khi cắt lá về phải xử lí đúng quy trình kĩ thuật và lá nón sẽ được mang đi sấy trắng. Ngoài ra, để làm nên một chiếc nón lá đẹp, người thợ còn cần đến tre, nứa, cước, chỉ may nón.

Ảnh: Nguồn Internet

Đầu tiên phải sấy khô lá bằng than củi sau đó phơi sương cho lá mềm. Khi lá đạt độ mềm đúng yêu cầu, dùng gang nóng bọc trong túi vải, là cho phẳng phiu. Sau đó người làm nón lại cẩn thận chọn lọc lá một lần nữa cho đồng màu, cắt bớt đầu đuôi để dài khoảng 50 cm. Để làm nón người thợ phải vô cùng khéo léo và tỉ mỉ. Khung nón được làm từ những thanh nứa khô và dẻo. Dưới bàn tay khéo léo của con người, những thanh nứa ấy được vót thật tròn và mịn. Sau đó được uốn thành những vòng tròn có đường kính to, nhỏ khác nhau và lần lượt từ thấp đến cao, nan lớn rồi nan nhỏ để dựng thành khung nón có hình chóp nhọn. Khung chiếc nón lá có 16 vòng tất cả, vòng to nhất có đường kính khoảng 50 cm, những vòng tiếp theo càng lên đỉnh càng nhỏ dần, vòng nhỏ nhất chỉ bằng đồng xu. Vành nón phải đều tăm tắp, không được méo mó, xộc xệch thì mới tạo ra được những chiếc nón đẹp. Khung nón được làm như vậy sẽ tạo dáng nón thanh thoát, hài hòa làm tôn lên vẻ đẹp của người đội nón.

Sau công đoạn làm khuôn là khâu lợp lá nón. Công đoạn này đòi hỏi người thợ phải thật khéo tay làm sao để nón lá phân bố đều trên khung, hình dáng cân đối và khi khâu lá nón không bị chồng lên nhau. Người thợ thủ công lấy từng chiếc lá, làm cho phẳng rồi xếp ngay ngắn lên khung nón. Mỗi chiếc nón gồm có 2 lớp lá, có một lớp mo lang ở giữa. Sau khi đã có một bộ khung hoàn hảo, công đoạn cuối cùng là khâu nón bằng kim và cước mỏng như sợi chỉ. Người khâu phải căn cho mũi chỉ đều tăm tắp, uốn theo vành nón. Công đoạn này đòi hỏi người thợ phải có tay nghề cao, cẩn thận, tỉ mỉ thì chiếc nón mới phẳng, khi quay nón người thợ phải khéo léo để không làm hở chóp, lá được xếp tránh bị cộm và để khâu nón không bị mũi kim đâm vào tay. Những đường kim mũi chỉ lên xuống nhịp nhàng sẽ gắn chặt lá nón và vành lại với nhau. Điều quan trọng nữa là mũi khâu yêu cầu phải ngắn, lỗ nhỏ thì chiếc nón mới tròn, khít, mịn từ mép lá đến đường khâu. Chiếc nón hoàn thành xong được quét một lớp dầu bóng để thêm bền và tăng tính thẩm mĩ. Quai nón được buộc đối xứng ở hai bên. Quai nón thường làm từ nhung, lụa hay chỉ với những màu sắc: cam, đỏ, hồng, tím. Để chiếc nón lá đẹp thêm, người thợ còn kì công thêu hình ảnh những cô thiếu nữ, đóa hoa, cảnh đẹp quê hương hay có khi là cả một bài thơ. Một chiếc nón đẹp là cả sự chăm chút của người làm nón. Cứ thế, bí quyết, kinh nghiệm và kỹ thuật làm nghề cũng như tâm huyết làm nón lá được truyền từ đời này sang đời khác.

Ảnh: Nguồn Internet

Mỗi vùng miền tại Việt Nam có những làng nghề làm nón lá và mẫu nón lá riêng biệt. Ở miền Bắc có làng Chuông (huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội), miền Trung có làng nón Ba Đồn (Quảng Nam) và đặc biệt là nón bài thơ của Thừa Thiên Huế,… Những chiếc nón lá của người miền Tây có sợi chỉ đỏ rất đặc trưng so với những chiếc nón lá Thanh Hóa. Nón lá Huế mỏng và thanh lịch hơn so với những chiếc nón lá của Bình Định.

Nón lá là món đồ trang sức không cầu kì đắt tiền mà đẹp một vẻ đẹp giản dị, mộc mạc như chính tâm hồn con người Việt Nam. Với mỗi người dân Việt Nam đặc biệt là những người nông dân, nón lá là vật dụng cần thiết và là người bạn thân thiết đối với con người. Nón lá được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau, chiếc nón lá có khi dùng để các bà các mẹ đội nón đi chợ hay dùng che nắng, che mưa khi làm đồng, dùng thay chiếc quạt khi nghỉ giải lao trên đồng ruộng. Chiếc nón lá cùng với tà áo dài làm tôn lên vẻ kín đáo, dịu dàng của những cô gái Việt. Hình ảnh người con gái trong tà áo dài và đội chiếc nón lá đã trở thành nét đặc trưng cho người con gái Việt Nam.

Ảnh: Nguồn Internet

Nón lá còn có ý nghĩa đặc biệt trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Nón đi vào những câu ca dao, điệu hò, thơ ca và nón lá được đưa vào nghệ thuật sáng tạo làm thành nhiều công trình nghệ thuật đặc sắc. Những màn múa nón duyên dáng trên sân khấu luôn khiến người xem không thể rời mắt. Trong những đám cưới truyền thống, chiếc nón lá cũng là vật dụng mà mẹ chồng trao cho con dâu trước khi về nhà chồng chứa đựng biết bao tình cảm và để cầu chúc cho cuộc sống vợ chồng trăm năm bền chặt. Chiếc nón lá cũng là món quà lưu niệm mà du khách nước ngoài mang về để tặng cho người thân. Nón được làm bằng lá nên khi sử dụng cần nhẹ nhàng, khi không dùng thì treo lên cao, tránh để rơi, dễ bị méo, thủng. Khi trời mưa có thể bọc ngoài nón một lớp túi bóng trắng mỏng, nếu bị ướt thì phơi khô tránh bị ố vàng.

Chiếc nón lá rất gần gũi với đời sống sinh hoạt của người dân Việt Nam. Chiếc nón lá luôn gắn liền với hình ảnh người phụ nữ Việt Nam bên tà áo dài thướt tha, bình dị. Chiếc nón lá góp phần tô điểm thêm nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam duyên dáng, hiền lành, chăm chỉ. Trải qua bao thăng trầm của thời gian, hiện nay ở Việt Nam vẫn còn một số làng nghề làm nón nổi tiếng như: làng Chuông (Hà Tây), làng Đồng Di (Phú Vang), Dạ Lê (Hương Thủy), đặc biệt là làng nón Phủ Cam (Huế),… Những làng nghề này ngoài sản xuất ra những chiếc nón công phu còn là nơi thu hút khách du lịch đến thăm và trải nghiệm thử những công đoạn làm nón.

Khánh An

Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Hóa – Định Nghĩa, Đặc Trưng, Chức Năng – Di Tích Lịch Sử – Văn Hoá Hà Nội trên website Nhatngukohi.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!