Xung Đột Lợi Ích Trong Doanh Nghiệp / Top 19 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 10/2023 # Top Trend | Nhatngukohi.edu.vn

Cổ Đông “Tố” Lãnh Đạo Coteccons Xung Đột Lợi Ích: Pháp Luật Qui Định Thế Nào Về Ngăn Ngừa Xung Đột Lợi Ích Trong Doanh Nghiệp ?

(Pháp lý) – Luật Phòng chống tham nhũng mới năm 2023 đã mở rộng điều chỉnh công tác phòng chống tham nhũng trong khu vực tư nhân và bao gồm một cơ chế mới về kiểm soát xung đột lợi ích. Luật Phòng chống tham nhũng 2023 cũng yêu cầu những người có chức vụ, quyền hạn của một công ty cổ phần đại chúng, hoặc một tổ chức tín dụng phải báo cáo trong trường hợp người đó biết hoặc buộc phải biết bất kỳ xung đột lợi ích nào với người có thẩm quyền.

Theo đó, người có chức vụ, quyền hạn của công ty có thể phải tuân theo các quy tắc về xung đột lợi ích theo Luật Phòng chống tham nhũng 2023 bao gồm: Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị, thành viên Hội Đồng Quản Trị, Giám Đốc hoặc Tổng Giám Đốc, thành viên Ban Kiểm Soát và những người nắm giữ các vị trí quản lý khác mà có thẩm quyền thay mặt Công Ty tham gia ký kết giao dịch của Công Ty theo điều lệ công ty; hoặc những người khác được giao một số nhiệm vụ và quyền hạn nhất định để thực hiện các nhiệm vụ đó.

Ricons ngoài tư cách nhà thầu phụ của Coteccons còn là đối thủ cạnh tranh trực tiếp trong lĩnh vực tổng thầu, thiết kế và thi công cùng phân khúc. Lợi nhuận sau thuế của Ricons năm 2023 chỉ bằng 11% Coteccons, nhưng đến năm ngoái đã bằng phân nửa.

“Điều này đặt ra câu hỏi lãnh đạo cấp cao của Coteccons quyết định chọn công ty nào đấu thầu cho dự án khi họ đồng thời quản lý cả hai doanh nghiệp cạnh tranh trực tiếp với nhau; lãnh đạo cấp cao của Coteccons và Ricons phân bổ lợi nhuận cho từng bên như thế nào trong các hợp đồng giữa hai bên”, phía Kusto thắc mắc.

Kusto cho rằng nếu lãnh đạo Coteccons hành động vì lợi ích tốt nhất của công ty thì họ không thực hiện đúng nghĩa vụ với cổ đông của Ricons, và ngược lại. Nhóm cổ đông khẳng định không thể tiếp tục đặt niềm tin vào Hội đồng quản trị và ban giám đốc hiện tại.

Trước lùm xùm trên, phía lãnh đạo Coteccons , ông Nguyễn Sỹ Công ( Tổng GĐ Coteccons) cho biết, với những dự án lớn, Coteccons không thể tập trung toàn bộ nguồn lực mà phải quản lý các nhà thầu phụ thi công trực tiếp. Công ty có hợp đồng chi tiết, quy định rõ trách nhiệm pháp lý với tất cả nhà thầu phụ và nhà cung cấp, kể cả những công ty con hoặc liên kết như Ricons, Unicons. Tuy nhiên, theo ông Công, vì không muốn Kusto tiếp tục có những hành động gây hấn nên doanh nghiệp này đã không ký bất cứ hợp đồng vào với Ricons từ cuối năm 2023 đến nay.

Ricons chưa lên sàn chứng khoán, có phân khúc khách hàng riêng và đội ngũ nhân sự chất lượng nên tiềm năng tăng trưởng lớn. Đây là lý do Coteccons muốn sáp nhập Ricons để gia tăng thị phần nhưng nhóm Kusto bác bỏ. Tỷ lệ sở hữu cổ phần của ông Nguyễn Sỹ Công tại Ricons ít hơn so với tỷ lệ tại Coteccons. Trong khi đó, ông Nguyễn Bá Dương không sở hữu cổ phiếu Ricons.

“Vì vậy, việc vu cáo ban lãnh đạo Coteccons tập trung nguồn lực cho Ricons là hoàn toàn không có căn cứ”, ông Công khẳng định.

Về yêu cầu chỉ định kiểm toán độc lập để làm rõ xung đột lợi ích giữa các thành viên của Coteccons, ông Nguyễn Sỹ Công nói, báo cáo tài chính mỗi năm đều được kiểm toán bởi những công ty trong nhóm Big4 nên không ai có thể can thiệp.

Theo Luật Phòng chống tham nhũng 2023, xung đột lợi ích là tình huống mà lợi ích của một người có chức vụ, quyền hạn trong công ty hoặc người thân thích của họ tác động hoặc sẽ tác động đến việc thực hiện nhiệm vụ của người đó. Người có chức vụ, quyền hạn của công ty có thể phải tuân theo các quy tắc về xung đột lợi ích theo Luật Phòng chống tham nhũng 2023 bao gồm:

Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị, thành viên Hội Đồng Quản Trị, Giám Đốc hoặc Tổng Giám Đốc, thành viên Ban Kiểm Soát và những người nắm giữ các vị trí quản lý khác mà có thẩm quyền thay mặt Công Ty tham gia ký kết giao dịch của Công Ty theo điều lệ công ty; hoặc những người khác được giao một số nhiệm vụ và quyền hạn nhất định để thực hiện các nhiệm vụ đó.

Luật Phòng chống tham nhũng 2023 cũng yêu cầu những người có chức vụ, quyền hạn của một công ty cổ phần đại chúng, hoặc một tổ chức tín dụng phải báo cáo trong trường hợp người đó biết hoặc buộc phải biết bất kỳ xung đột lợi ích nào với người có thẩm quyền.

Theo Nghị Định 59/2023, một công ty cổ phần đại chúng, hoặc tổ chức tín dụng sẽ cần phải ban hành: Chính sách về xung đột lợi ích cho tất cả nhân viên và thành viên của Công Ty; và Cơ chế nội bộ về tiếp nhận và xử lý thông tin, báo cáo về xung đột lợi ích.

Đối với các giao dịch của các đối tượng nêu trên do Đại hội đồng cổ đông hoặc HĐQT chấp thuận, công ty đại chúng phải thực hiện công bố thông tin về các nghị quyết này theo quy định của pháp luật chứng khoán về công bố thông tin.

Lê Phúc

Xung Đột Lợi Ích Trong Doanh Nghiệp Liên Doanh: Một Số Góp Ý Nhằm Thực Thi Luật Đầu Tư 2005

1. Không cầu toàn, văn bản hướng dẫn Luật ĐT 2005 nên chọn trọng tâm điều chỉnh

Về lâu dài, gom các hoạt động đầu tư về một mối để tiện quản lí là một kế hoạch đầy tham vọng. Chỉ riêng với nhà đầu tư nước ngoài, các kênh đầu tư đã trở nên hết sức đa dạng và được điều chỉnh bởi nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau.

Nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có thể lựa chọn nhiều kênh tiếp cận và đầu tư khác nhau như: (i) sử dụng mạng tiêu thụ có sẵn ở Việt Nam (đại diện thương mại, đại lí), (ii) thành lập văn phòng đại diện, (iii) thành lập chi nhánh, (iv) thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, (v) thành lập doanh nghiệp liên doanh với các đối tác Việt Nam, (vi) tham gia các hợp đồng hợp tác kinh doanh, hay (vii) mua lại cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam, chuyển đổi trái phiếu thành cổ phần. Các kênh đầu tư này được điều chỉnh bởi rất nhiều văn bản pháp luật khác nhau, trong đó có Luật Thương mại 2005 (đại diện, đại lí, văn phòng đại diện, chi nhánh), pháp luật về chứng khoán (mua cổ phần trong công ty Việt Nam), các quy định của Luật DN 2005 và Luật ĐT 2005. Thêm nữa, khi được phép đầu tư vào các ngân hàng, cơ sở y tế, đào tạo và các hợp tác xã, nhà đầu tư nước ngoài phải tuân thủ các quy định pháp luật chuyên ngành riêng áp dụng cho các loại hình dịch vụ đặc biệt này[1].

Vì hoạt động đầu tư đa dạng như vậy, để tăng tính khả thi, tránh trùng lặp với các văn bản đã có sẵn, Luật ĐT 2005 và Nghị định hướng dẫn thi hành chỉ có thể tập trung vào một số điểm, ví dụ như nhấn mạnh tới chính sách bảo hộ, khuyến khích đầu tư, quy trình giám sát đầu tư nước ngoài tuân thủ các quy định về chuyển giao công nghệ, bảo vệ môi trường và các tiêu chí khác của nước nhận đầu tư, mà không nên ôm đồm nhiều nội dung.

Nếu quá tham về nội dung điều chỉnh, dự thảo (lần thứ 14) của nghị định hướng dẫn thi hành Luật ĐT 2005 đã bao gồm 100 điều khoản, văn bản này hứa hẹn sẽ trở thành một siêu nghị định kiểu như NĐ181/2004/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đất đai. Thêm nữa, quyền hướng dẫn thực thi văn bản luật của Bộ KH&ĐT theo khoản 2 Điều 100 Dự thảo Nghị định là rất lớn, có thể làm cho môi trường pháp lí về đầu tư nước ngoài phức tạp dần lên (Luật ĐT có 89 điều, Nghị định 100 điều, các thông tư và công văn sau này của Bộ Kế hoạch & Đầu tư liệu có thể còn trung thành với tinh thần của Luật ĐT 2005, thiết chế nào giám sát và chỉnh sửa những lệch lạc có thể xảy ra giữa luật gốc và văn bản hướng dẫn thi hành).

Nếu tập trung vào một nội dung hẹp, dự thảo nghị định sẽ giản lược, khả thi và mạch lạc hơn. Thêm nữa cần tránh xung đột với luật về tổ chức công ty đã được quy định bởi Luật DN 2005, luật về hợp đồng (Bộ luật Dân sự , Luật Thương mại 2005), luật về tổ chức và thẩm quyền của các cơ quan nhà nước. Ví dụ có thể lược nhẹ các Điều 82 – 98 Dự thảo Nghị định về quản lí nhà nước về đầu tư; chức phận của các cơ quan từ trung ương đến địa phương đã khá rõ trong Luật Tổ chức chính phủ và các nghị định về thẩm quyền các bộ, không cần nhắc lại ở văn bản này. Trong chương này có thể chỉ nên giữ lại Điều 98 về cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các chủ đầu tư với nhau và với nhà nước.

2. Vấn đề của chúng ta: Được và mất trong các liên doanh quốc tế

Khác với người soạn Luật DN 2005 mơ cho dân doanh nhiều và mạnh như có thể, người soạn Luật ĐT có thể có những băn khoăn trong tiết độ vốn nước ngoài cho phù hợp với các mục đích trong nước. Nếu vay 750 triệu USD từ thị trường chứng khoán New York (với giá khá đắt so với Mã Lai và Inđônexia), để rồi đổ dồn cho một công ty Vinashin, làm cho vốn đầu tư của công ty này đã bằng ¾ quy mô của hãng đóng tàu Hyundai, người ta có thể hỏi rằng so với đầu tư lớn như thế, ngành đóng tàu có mang lại giá trị gia tăng đáng kể gì cho Việt Nam, trong khi sắt thép, động cơ, sơn và thiết bị đều nhập ngoại, còn nước ta chỉ đóng góp nhân công và hứng lấy những ô nhiễm trầm trọng về môi sinh [2].

Những cảnh báo khác cũng xuất hiện khi doanh nghiệp Việt Nam tốn công giải tỏa mặt bằng, góp phần phổ cập thương hiệu và xây dựng hệ thống tiêu thụ cho doanh nhân nước ngoài trong các liên doanh, để rồi một ngày do thua lỗ, bên nước ngoài dường như thôn tính phần vốn trong nước với giá rẻ. Chắc rằng khuyến khích đầu tư nước ngoài sẽ dẫn tới những được và mất cho nền kinh tế quốc nội, và một trọng tâm không thể tránh được của Luật ĐT 2005 là cân đối giữa lợi ích của Việt Nam như một nước tiếp nhận đầu tư và lợi ích các nhà đầu tư nước ngoài.

Đây là một vấn đề lớn bởi lẽ một phần lớn (khoảng 70% dự án) các dự án có vốn đầu tư nước ngoài đã được thực hiện dưới hình thức các liên doanh giữa bên nước ngoài và bên Việt Nam, trong đó bên Việt Nam thường là các doanh nghiệp nhà nước (98% trong các dự án liên doanh). Lựa chọn hình thức liên doanh, nhà đầu tư nước ngoài có một số ưu điểm như: tiếp cận thị trường nội địa nhờ góp sức của bên Việt Nam, tiếp cận nguồn đất đai đang do doanh nghiệp nhà nước chiếm giữ mà chưa sử dụng, có được hậu thuẫn của các cơ quan nhà nước Việt Nam, nhất là cơ quan chủ quản của bên Việt Nam và chia sẻ rủi ro. Tuy vậy, hình thức liên doanh cũng bộc lộ khá nhiều yếu điểm, ví dụ như việc quản trị công ty đôi khi rất khó khăn do triết lí và văn hóa kinh doanh của các bên khác nhau, đôi khi bên Việt Nam có khả năng vốn rất hạn chế, sau khi góp vốn bằng quyền sử dụng đất, thường lệ thuộc vào bên nước ngoài trong việc tìm kiếm các nguồn vốn bổ sung hoặc tìm kiếm thị trường.

Dù chưa có chứng minh bằng thực nghiệm và cơ sở dữ liệu, song có nhiều dấu hiệu cho thấy bên nước ngoài có thể thao túng liên doanh khá dễ dàng, nếu bên Việt Nam thường chỉ là các doanh nghiệp nhà nước. Tỷ lệ vốn góp áp đảo (thường 70% vốn góp từ nước ngoài) chỉ là một khía cạnh. Thậm chí, bên nước ngoài chỉ cần chiếm một tỷ lệ vốn rất thấp, kiểu như 10% cổ phần của các cổ đông chiến lược nước ngoài trong các ngân hàng quốc nội, song cổ đông nhỏ bé ấy vẫn có thể thao túng công ty, bởi lẽ phần quốc nội, dù là 30% hay tới 90%, đều không có đại diện rõ ràng. Bằng cách mua chuộc đại diện bên Việt Nam trong Hội đồng quản trị các liên doanh những lợi ích tư, ví dụ lương bổng cao (2,500-3,000 USD/tháng), cấp học bổng cho người thân, bên nước ngoài có thể vô hiệu hóa vai trò giám sát của các vị đại diện quốc hữu này và khai thác khối tài sản hầu như vô chủ góp từ Việt Nam [3].

Bởi vậy, cần nhấn mạnh rằng Luật ĐT có một mục đích hết sức hệ trọng là cân đối lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài, khống chế chúng vì lợi ích của nước nhận đầu tư. Cần nhận rõ cách làm của gần 20 năm qua đã có những thành công và thất bại gì để thiết kế những cách giám sát mới, nếu không muốn biến nước ta thành một nơi khai thác nhân công rẻ, một nơi để tư bản nước ngoài xâu xé thị trường và các nguồn tài nguyên và cũng như tận thu phế thải công nghệ.

3. Xung đột lợi ích thường gặp trong liên doanh quốc tế

– Do bên Việt Nam thường là doanh nghiệp nhà nước, cho nên tìm kiếm sự đồng ý về nguyên tắc của cơ quan chủ quản, UBND các tỉnh và cơ quan hữu trách đôi khi cũng là một quy trình tốn kém thời gian. Bên nước ngoài đôi khi phải thuê công ty tư vấn đầu tư hoặc tư vấn pháp lí để thu xếp các sự đồng ý về nguyên tắc này. Nếu người trung gian này là người nhà thân thiết với lãnh đạo các cơ quan hữu trách kể trên thì quá trình tìm kiếm chấp thuận có thể diễn ra nhanh. Thời gian cho các bước cấp phép đầu tư theo các Điều 67, 68, 69 Dự thảo Nghị định trên thực tế chắc sẽ ít ý nghĩa, bởi nó chỉ công khai hóa các bước vận động nửa chìm nửa nổi như mô tả kể trên. Thêm nữa, quy ước như vậy mà không chế tài được, không ép được cơ quan nhà nước phải thực hiện, thì ý nghĩa pháp lí cũng thấp. Đây là thói quen có từ gần 10 năm nay, ban soạn thảo Nghị định có thể duy trì, song có thể dự báo hiệu ứng xã hội của các quy phạm kiểu này sẽ không cao.

– Tham gia Hội đồng quản trị thường có đại diện bên Việt Nam, mặc dù góp ít vốn song thường có cơ cấu ít nhất hai thành viên (ví dụ trong 5 thành viên Hội đồng quản trị sẽ có 02 đại diện bên Việt Nam và 03 đại diện bên nước ngoài). Điều thú vị là bên Việt Nam xem vị trí Hội đồng quản trị như là bổng lộc, thường đem chia thành hai xuất: 01 xuất dành cho doanh nghiệp trực tiếp tham gia liên doanh, 01 xuất dành cho cơ quan cấp trên, ví dụ một thành viên của Tổng công ty Hóa chất liên doanh với P&G, thì đơn vị thành viên cụ thể được cử một xuất Hội đồng quản trị, Tổng công ty cử một đại diện tham gia. Khi vận hành theo công ty cổ phần hay công ty TNHH theo Luật DN 2005, thói quen này có thể sẽ không được áp dụng nữa, vì Hội đồng thành viên trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc Đại hội đồng cổ đông sẽ thay thế Hội đồng quản trị theo cách hiểu cũ. Bởi vậy, nếu muốn duy trì tiếng nói của bên Việt Nam trong liên doanh có lẽ nên suy tính các quy tắc chuyển đổi, hay các điều lệ mẫu áp dụng cho liên doanh.

– Cần có những khảo sát kĩ lưỡng hơn để đánh giá xem các đại diện của bên Việt Nam trong Hội đồng quản trị các liên doanh có thực sự đại diện cho lợi ích của bên Việt Nam, hay chú ý nhiều hơn đến lợi tư (lương cao, thường từ 2,500 – 3,000 USD/tháng và nhiều lợi ích tưkhác). Nay nếu đổi các Hội đồng quản trị thành các Hội đồng thành viên hay Đại hội đồng cổ đông, cơ chế thúc ép, giám sát người đại diện Việt Nam phải trung thành với lợi ích của bên Việt Nam vẫn còn hết sức thời sự và cần được đặt ra. Điều này chưa thấy được làm rõ trong Dự thảo nghị định.

– Rắc rối trong quản trị liên doanh quốc tế đôi khi cũng do bên Việt Nam có quyền phủ quyết khi bổ nhiệm Tổng giám đốc/Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc thông qua điều lệ công ty liên doanh. Về nguyên tắc thông qua theo đa số tuyệt đối hay còn gọi là nguyên tắc nhất trí, Luật DN chỉ có một quy định duy nhất tại khoản 2 Điều 30 Luật DN 2005, theo đó định giá vốn góp phải theo nguyên tắc nhất trí (unanimous voting), các việc khác theo đa số, nếu không được thỏa thuận trong điều lệ công ty. Nếu muốn giữ cơ chế bảo vệ cũ, cũng nên tìm cách soạn thảo điều lệ mẫu cho liên doanh quốc tế và hối thúc các nhà đầu tư tuân thủ điều lệ mẫu, nếu thỏa thuận khác đi phải giải trình trước cơ quan đăng kí.

+ Nguy cơ bên nước ngoài khai khống vốn, rút lãi về qua chênh lệch giá (price transfering), rút lãi về qua lương bổng quá cao cho nhân viên nước ngoài;

+ Nguy cơ bên nước ngoài ép mua vật tư, bao tiêu sản phẩm, dìm giá bán hàng trong khi bao tiêu sản phẩm;

+ Các mục đích du nhập quản trị công ty hiện đại, du nhập công nghệ thông qua liên doanh quốc tế khó có thể thực hiện được, bởi khối tài sản của doanh nghiệp nhà nước thường bị tách thành 2 phần, phần đem góp vào liên doanh và phần giữ nguyên sở hữu và quản trị lạc hậu;

+ Các rủi ro về môi trường sống, đầu tư kém chất lượng biến nước ta trở thành bãi rác công nghệ lạc hậu.

Tóm lại, Luật ĐT 2005 và nghị định hướng dẫn thi hành, nếu đặt mục tiêu bảo vệ lợi ích của nước nhận đầu tư, phải tìm các công cụ để bảo vệ bên Việt Nam trước các nguy cơ phổ biến kể trên. Điều đáng lưu ý là, Luật DN 2005, với tư cách là một đạo luật chung, không cung cấp các công cụ riêng cho các liên doanh quốc tế. Nghị định hướng dẫn Luật ĐT 2005 nên xem việc quản trị những rủi ro này là một trọng tâm.

4. Luật DN và Luật ĐT 2005: Hai phản ứng khác nhau của nhà làm luật

Bảo vệ quyền lợi của bên Việt Nam suy cho cùng cũng là bài toán bảo vệ cổ đông, bảo vệ đối xử bình đẳng giữa các cổ đông trong một công ty- một chủ đích mà cả hai đạo luật về doanh nghiệp và đầu tư cùng quan tâm. Tuy nhiên có thể nhận thấy hai đạo luật này tiếp cận bài toán bằng các công cụ khác nhau. Trong khi Luật DN 2005 tìm cách hạn chế cấp phép, gia tăng hậu kiểm, buộc doanh nghiệp tuân thủ kỷ luật báo cáo và bị giám sát thường xuyên (ex post control), thì Luật ĐT 2005 duy trì tư duy truyền thống, kiểm tra ngay từ khi tổ chức thực hiện dự án (ex ante control), duy trì kiểm soát khi đăng kí đầu tư, dự án đầu tư nước ngoài nhỏ hơn 300 tỷ đồng phải đăng kí, lớn hơn 300 tỷ đồng phải thẩm tra để cấp phép đầu tư [4].

Người soạn luật đã làm rõ mục đích của việc đăng kí tại khoản 4 Điều 62, theo đó cơ quan đăng kí chỉ ghi nhận các hồ sơ được nộp, mà không thẩm định, cũng không có quyền đòi thêm hồ sơ. Ngược lại, với các dự án lớn hơn 300 tỷ đồng, các tiêu chí thẩm tra cũng đã được liệt kê tại khoản 4 Điều 63. Hai quy chế này, theo thiển nghĩ của tôi đã được thiết kế rõ ràng, thành công, dễ tiên liệu (tuy nhiên mọi hoạt động tìm kiếm chấp thuận về góp đất và tài sản của doanh nghiệp nhà nước, của quan chức các cấp vẫn phải diễn ra trước khi đăng kí dự án như đã mô tả ở trên).

Thêm nữa, có nên giản lược cho nhà đầu tư số lượng 8 hoặc 10 bộ hồ sơ mà người soạn luật yêu cầu, hoặc có cách nào kết nối thông tin giữa các bộ phận quản lí hành chính tiện ích và chính xác hơn chăng. Hình ảnh các giám đốc phải ngồi cả ngày để kí từng trang của các tệp hồ sơ là dấu hiệu ban đầu không thân thiện với các nhà đầu tư. Cần lí giải lí lẽ vì sao cần đến 8-10 bộ hồ sơ, phải chăng có quá nhiều cơ quan nhà nước cùng tham gia quản lí đầu tư nước ngoài, song đơn vị nào cũng muốn quản lý thông tin của mình mà không muốn chia sẻ với cơ quan khác.

Ngoài ra, đăng kí hay thẩm tra sẽ đạt được mục đích gì, nếu trong quá trình hoạt động nhà đầu tư nước ngoài không tuân thủ các cam kết trong hồ sơ đăng kí. Vụ việc các trung tâm Anh ngữ SITC đã cho thấy những khuyết tật đáng ngờ của cơ chế tiền kiểm, các loại giấy phép đầu tư đã không cản được SITC thành lập hàng chục chi nhánh trên toàn quốc, không tuân thủ báo cáo tài chính, quỵt tiền lương của hàng ngàn giáo viên và tiền học phí của gần 3 vạn học viên trên 21 tỉnh thành toàn quốc. Những bài học cay đắng khác với Trường Quốc tế Hà Nội, Trường Đại học Á Châu đều cảnh báo những nguy cơ của hệ thống tiền kiểm. Mục đích của việc đăng kí chắc rằng cũng phải giúp bảo vệ chủ nợ Việt Nam (người làm công, học sinh), bảo vệ môi trường sống, và xa hơn là cải thiện nỗi lo lạc hậu về công nghệ. Liệu hệ thống tiền kiểm đã chứng minh được hiệu quả trong gần 20 năm qua, hay cần phải tính tới những biện pháp can thiệp và phản ứng hiệu quả hơn của cơ quan nhà nước đối với đầu tư nước ngoài? Đây là điều cần khảo cứu kĩ lưỡng hơn trước khi quyết định duy trì hệ thống tiền kiểm truyền thống. Theo thiển nghĩ của tôi, nên gia tăng giám sát sau đăng kí, cưỡng bức mạnh mẽ trách nhiệm báo cáo, ví dụ như đe dọa bỏ tù giám đốc nếu từ chối báo cáo tài chính- chẳng hạn như pháp luật Anh Quốc, tăng cường nghĩa vụ kiểm toán độc lập, buộc kí quỹ, buộc mua bảo hiểm đối với những dự án có nguy cơ gây hại đến môi sinh. Những hình thức can thiệp này dường như sẽ hiệu quả hơn chỉ là giám sát ban đầu qua đánh giá tác động môi trường.

Ngoài những nhận định kể trên, nếu tư duy theo mô thức doanh nghiệp được làm tất cả những gì pháp luật không cấm hoặc hạn chế, bởi vậy việc liệt kê các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp như Điều 8, Điều 9 Luật DN 2005 thực ra chỉ có ý nghĩa tượng trưng, mà rất ít ý nghĩa pháp lí có tính cưỡng bức phải thi hành. Tương tự như vậy, các điều 34 – 40 của Dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật ĐT 2005 liệt kê các quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư, song ý nghĩa thực tiễn của các điều này có thể không nhiều, bởi nhà đầu tư đương nhiên được hưởng quyền thông qua các hiệp định bảo hộ và khuyến khích đầu tư, các cam kết của nhà nước Việt Nam (Nghị định không cần cho, họ cũng đã có những quyền đó). Thêm nữa, nếu bị hạn chế, ví dụ về ngoại hối hay sử dụng nhân công, đều đã có pháp luật chuyên ngành. Việc sử dụng thuật ngữ nên nhất quán, tránh làm rối người phải thi hành với những quy định về “nghĩa vụ và trách nhiệm” ngay trong cùng một điều luật (Điều 43 Dự thảo Nghị định). Nếu là nghĩa vụ pháp lí thì mới cưỡng chế thi hành được, còn trách nhiệm chung chung thì rất khó thực thi.

5. Một số kết luận ban đầu

Từ những quan sát ban đầu, có thể thấy một đạo luật 89 điều đang chuẩn bị được hướng dẫn thi hành bởi một nghị định đồ sộ hàng trăm điều với quyền tự do giải thích luật rộng rãi của Bộ Kế hoạch & Đầu tư. Trong bối cảnh cả thế giới đang tìm cách giảm thiểu quy chế hành chính và tìm cách viết luật dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thi hành cho giới doanh nhân, có thể ban soạn thảo nghị định cần suy tính tập trung vào những điều trọng yếu nhất mà Luật ĐT cần hướng tới. Trong khi đăng kí dự án đối với đầu tư của tư nhân trong nước có thể chưa là mục đích chính, thì việc bảo vệ lợi ích của nước nhận đầu tư, hạn chế lạm quyền bởi nhà đầu tư nước ngoài nên là một chủ đích rất đáng quan tâm. Điều này càng đặc biệt quan trọng trong các dự án liên doanh với nước ngoài, bởi đa số đối tác Việt Nam trong các dự án này đều là doanh nghiệp quốc doanh. Sự không rõ ràng về sở hữu toàn dân đã và đang là cơ hội để các nhà tư bản lão luyện nước ngoài khai thác nhằm khống chế các liên doanh hoạt động theo ý đồ kinh doanh của họ. Luật ĐT và các văn bản hướng dẫn thi hành không thể né tránh thực tiễn đó.

[2] David Dapice, Fear of Flying: Why is Sustaining Reform so hard in Vietnam, Review of 20 years of Doi Moi in Vietnam, Hanoi, June 15-16, 2006 Vũ Thành Tự Anh, Huỳnh Thế Du, FETP Faculty Publication, có thể tải về từ: http://www.fetp.edu.vn/home.cfm?rframe=/research_casestudy/facresearchliste.htm Luật ĐT 2005: Luật ĐT 2005 ban hành ngày 29/11/2005, có hiệu lực từ ngày 01/07/2006. Dự thảo Nghị định: Dự thảo (số 14) hướng dẫn thi hành Luật ĐT 2005; Bộ KH&ĐT, ngày 13/06/2006. [3] Thảo Nguyên, 2006, Quản lí phần vốn nhà nước: Hãy nhớ bài học liên doanh, Tia sáng 1/2006, tr. 59 [4] Điều 62, 63 Dự thảo Nghị định [5] Xem các điều 77 – 80 Dự thảo Nghị định Luật ĐT 2005 [6] Điều 62, Điều 78 Dự thảo Nghị định Luật ĐT 2005

Xung Đột Lợi Ích, Giải Quyết Xung Đột, Ví Dụ

Xung đột là một cuộc đối đầu nảy sinh giữa những người tham gia vào quá trình giao tiếp do sự khác biệt về thái độ, thái độ, sở thích, niềm tin, giá trị, mục tiêu. Xung đột được coi là cách gay gắt nhất để giải quyết cuộc đối đầu. Nó bao gồm việc chống lại các bên và thường đi kèm với những cảm xúc tiêu cực, những hành động vượt ra ngoài những chuẩn mực được chấp nhận chung. Đối đầu là không thể tránh khỏi trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống. Do đó, cần nghiên cứu các phương pháp giải quyết xung đột để giảm tác động phá hoại của chúng và giảm thiểu rủi ro về hậu quả tiêu cực.

Xung đột lợi ích

Xung đột lợi ích, nó là gì?

Xung đột lợi ích đề cập đến mâu thuẫn nảy sinh giữa lợi ích cá nhân của cá nhân và nhiệm vụ chuyên môn, quyền hạn chính thức của mình. Sự hiện diện của một mâu thuẫn như vậy có thể ảnh hưởng đến sự công bằng và vô tư của việc ra quyết định, hành động hoặc không hành động trong việc thực hiện các mô tả công việc, quyền hạn chính thức và nhiệm vụ chuyên môn.

Xung đột về các ví dụ về lợi ích có thể được quan sát không chỉ khi một quan chức thực hiện dịch vụ công cộng, mà cả khi làm việc trong doanh nghiệp tư nhân. Trong trường hợp này, xung đột lợi ích sẽ được gọi là mâu thuẫn xảy ra khi một cá nhân hoặc toàn bộ tổ chức hoạt động đồng thời theo nhiều hướng khác nhau và nhiệm vụ của các lĩnh vực hoạt động này khác nhau.

Xung đột lợi ích. Một ví dụ về điều này có thể được tìm thấy trong lĩnh vực chuyên nghiệp ở mọi bước trong tình huống lợi ích cá nhân của nhân viên mâu thuẫn với lợi ích và mục tiêu của doanh nghiệp mà anh ta làm việc. Các tình huống làm phát sinh xung đột lợi ích được quan sát ở khắp mọi nơi. Họ phát sinh giữa các thành viên cùng lớp, những người tham gia vào các mối quan hệ gia đình, trong các nhóm cùng chí hướng, giữa các đồng nghiệp. Các cuộc đối đầu dựa trên sự đối đầu về mục tiêu của những người tham gia tương tác có thể xuất hiện bất kể sự thù địch giữa các cá nhân. Trong mọi trường hợp, một hiện tượng như xung đột lợi ích phải được chấm dứt ngay lập tức, vì nó dẫn đến sự xâm phạm lợi ích của toàn bộ tổ chức.

Ngoài ra, các tình huống đối đầu có thể phát sinh khi quỹ bị giới hạn để đạt được các mục tiêu dự định. Lợi ích quá mức mâu thuẫn với sự khan hiếm các nguồn lực cần thiết để đáp ứng nhu cầu tập thể và cá nhân.

Vì vậy, trả lời từ quan điểm pháp lý của câu hỏi về xung đột lợi ích, đó là gì, chúng ta có thể rút ra định nghĩa sau đây.

Nhìn chung, xung đột lợi ích trong lĩnh vực khởi nghiệp được đặc trưng bởi sự hiện diện của ba thành phần khách quan: tính hai mặt của nhu cầu, thiệt hại lớn, hành động sai trái hoặc che giấu và kết nối khách quan giữa chúng.

Thông thường, xung đột lợi ích xảy ra:

– như một sự phản đối cá nhân về lợi ích và như một xung đột lợi ích của tổ chức;

– trong tình huống lợi ích cá nhân của cá nhân, chẳng hạn như: tài sản tài chính tư nhân và các mối quan hệ nghề nghiệp bên ngoài tổ chức, tham gia vào một cuộc đối đầu tưởng tượng hoặc thực sự với các nhiệm vụ mà anh ta thực hiện, được gọi là xung đột lợi ích cá nhân. Xung đột tổ chức xảy ra khi: một tổ chức không thể cung cấp dịch vụ một cách khách quan do các hoạt động khác;

– sự vô tư của tổ chức bị vi phạm hoặc có thể bị vi phạm trong việc thực hiện các nghĩa vụ được giao cho nó;

– tổ chức này có lợi thế cạnh tranh quá lớn.

Xung đột lợi ích. Một ví dụ là như sau. Sự không tương thích về lợi ích thường được quan sát thấy trong dịch vụ công cộng, khi một cá nhân có trách nhiệm đưa ra quyết định sử dụng vốn ngân sách có bất kỳ mối quan hệ nào với một công ty, doanh nghiệp, tổ chức là một trong những ứng cử viên nhận được các khoản tiền đó trong trường hợp đấu thầu cạnh tranh.

Giải quyết xung đột lợi ích được coi là một trong những nhiệm vụ chính của các cơ chế chống tham nhũng, đồng thời, là một phương tiện để đảm bảo tiến trình quan hệ chính thức.

Ngày nay, khi tạo ra một mô hình hành vi của công ty, nhiều doanh nghiệp thương mại bao gồm một mô tả về những xung đột có thể có của nhu cầu và cách để ngăn chặn chúng. Trong số các tình huống tiềm năng phổ biến nhất của cuộc đối đầu là:

– tiết lộ cho các công ty cạnh tranh (quan tâm), các công ty thông tin bí mật của công ty;

– sử dụng các cơ hội mà tổ chức cung cấp để gây bất lợi cho tổ chức này vì mục đích hiện thực hóa các mục tiêu và lợi ích của chính mình;

– việc thông qua các khoản vay và thuyết trình từ khách hàng hoặc nhà cung cấp, dẫn đến sự xuất hiện của một số nghĩa vụ mâu thuẫn với các nhiệm vụ và nhu cầu của tổ chức;

– liên lạc với các công ty, khách hàng hoặc nhà cung cấp cạnh tranh để có được lợi ích cho chính người thân hoặc họ hàng của họ.

Cần đặc biệt chú ý đến việc giải quyết xung đột lợi ích phát sinh trong dịch vụ công ở nước ngoài. Thực tiễn thế giới xem xét những mâu thuẫn như vậy dưới ba hình thức: gia đình trị, chủ nghĩa kronism và chủ nghĩa vận động hành lang nhúng.

Nepotism là việc cung cấp các bài đăng và vị trí cho các cá nhân mà người sử dụng lao động trong mối quan hệ gia đình và các mối quan hệ.

Cronism được tiết lộ trong việc bổ nhiệm công chức vào các chức vụ cao nhất của bạn bè, đối tác thân mật hoặc đồng nghiệp kinh doanh. Vận động hành lang tích hợp được quan sát thấy khi một đại diện của doanh nghiệp tư nhân có được một vị trí trong lĩnh vực dịch vụ công cộng mà anh ta thực hiện công việc kinh doanh của mình.

Giải quyết xung đột

Các nhà tâm lý học và nhà xung đột làm việc trong lĩnh vực tìm kiếm giải pháp để giải quyết các tình huống đối đầu đưa ra các phương pháp giải quyết xung đột sau đây.

Ở lượt đầu tiên, họ khuyên bạn không nên tiếp tục cuộc đối đầu. Các nhà lý luận xung đột đã đề xuất một cuộc thi đối đầu mở. Theo thỏa thuận sơ bộ, người chiến thắng trong một cuộc thi như vậy được đưa ra đối tượng xung đột, và bên thua cuộc phải tự nguyện từ bỏ quyền sở hữu đối tượng của cuộc đối đầu. Tùy chọn này được coi là một trong những chấp nhận được nhất.

Các nhà tâm lý học cũng khuyên không nên bắt đầu một cuộc cãi vã, nhưng cố gắng đồng ý về một sự hợp tác hiệu quả, kết quả của nó sẽ là sự chiếm hữu bình đẳng của tất cả các bên của đối tượng xung đột.

Một cách riêng biệt, các phương pháp giải quyết xung đột lợi ích phát sinh từ dịch vụ trong các cơ quan nhà nước nên được nêu rõ. Bốn phương pháp như vậy được phân biệt: chủ động, tiết lộ, từ chối tự nguyện, giám sát.

Phương pháp phòng ngừa là ngăn chặn sự xuất hiện của xung đột lợi ích. Phương pháp này được coi là hiệu quả nhất trong việc chống tham nhũng. Một ví dụ về phương pháp được mô tả là sự từ chối của quan chức được bổ nhiệm vào chức vụ từ phần vốn của doanh nghiệp.

Trong hệ thống các cơ quan nhà nước, các tổ chức được ủy quyền đặc biệt nhằm chống tham nhũng được giám sát. Các tổ chức như vậy giám sát việc tuân thủ các yêu cầu của khung pháp lý, các yêu cầu đối với hành vi của các quan chức và giải quyết xung đột lợi ích.

Giải quyết mâu thuẫn một cách có thẩm quyền và kịp thời là chìa khóa cho sức khỏe tinh thần của mọi người, vì bất kỳ cuộc đối đầu nào cũng làm nảy sinh mâu thuẫn, phân đôi, bất hòa trong đội. Đồng thời, xung đột cũng là điều kiện cần thiết để hợp nhất nhóm và đưa nó đến một vòng phát triển mới có chất lượng.

Quản lý xung đột được coi là một kỹ năng quan trọng cho một nhà lãnh đạo thành công. Thật vậy, như họ nói, sự thiếu hiểu biết về các khía cạnh của quản lý xung đột trong nhóm không làm giảm trách nhiệm của các ông chủ.

Các cuộc đối đầu trong các tổ chức được phân loại theo định hướng và theo chiều ngang, dọc và hỗn hợp.

Xung đột ngang được gây ra bởi cạnh tranh và so sánh. Dọc – quan sát giữa các cá nhân là cấp dưới, nghĩa là giữa cấp trên và cấp dưới. Đối đầu hỗn hợp, tương ứng, là cả đối đầu dọc và ngang.

Có thể giải quyết xung đột giữa người lãnh đạo và cấp dưới, trong nhóm:

– công nhận thực tế về sự tồn tại của một tình huống đối đầu, sự hiện diện của một người tham gia đối lập và yêu sách của anh ta;

– một ý tưởng rõ ràng về nội dung của các lợi ích xung đột;

– chuẩn bị đối thủ cho việc áp dụng các chuẩn mực chung về hành vi.

Đối với mỗi nhà lãnh đạo, nếu anh ta quan tâm đến sự thịnh vượng của tổ chức của mình, điều rất quan trọng là môi trường tâm lý trong nhóm có ảnh hưởng có lợi đến bản chất và chất lượng của công việc tập thể của nhân viên.

Ngày nay, một trong những điều kiện chính cho người lãnh đạo Hoạt động hiệu quả của nhà lãnh đạo được coi là nhận thức tâm lý xã hội của anh ta, tạo nên sự chuẩn bị và năng lực xung đột.

Năng lực xung đột, giải quyết xung đột có thẩm quyền và hiệu quả giữa người lãnh đạo và cấp dưới, trong nhóm bao gồm:

– Nhận thức về bản chất của sự va chạm, bất đồng, xung đột giữa các chủ thể;

– phát triển thái độ xây dựng giữa bản thân và nhân viên đối với những mâu thuẫn trong tổ chức;

– Sở hữu kỹ năng giao tiếp không xung đột trong các tình huống khó khăn;

– khả năng phân tích và giải thích các tình huống vấn đề mới nổi;

– khả năng phát triển các nguyên tắc hữu ích của các cuộc đối đầu mới nổi;

– sự hiện diện của các kỹ năng để quản lý các hiện tượng đối đầu;

– khả năng lường trước hậu quả có thể xảy ra của xung đột;

– sự hiện diện của các kỹ năng để loại bỏ các hậu quả tiêu cực của mâu thuẫn;

– khả năng quản lý xây dựng va chạm, cãi vã, tranh chấp và xung đột.

Giải quyết xung đột buộc các nhà lãnh đạo phải đóng vai trò là bên thứ ba. Nói cách khác, ông chủ là một người trung gian tìm cách khôi phục sự cân bằng tâm lý trong đội. Các hoạt động của nhà lãnh đạo với tư cách là một trung gian bao gồm đánh giá và phân tích tình hình, cũng như trực tiếp giải quyết xung đột.

Phân tích và đánh giá tình huống đối đầu bao gồm lấy thông tin về đối tượng va chạm, thu thập thông tin về nó, kiểm tra dữ liệu thu được, xác minh độ tin cậy của chúng, phân tích tình huống xung đột.

Quá trình giải quyết mâu thuẫn bao gồm lựa chọn phương tiện để giải quyết, như hòa giải, thực hiện phương pháp đã chọn, sàng lọc dữ liệu và quyết định, giảm hoặc loại bỏ căng thẳng sau xung đột trong quan hệ của đối thủ, phân tích kinh nghiệm trong quản lý xung đột.

Tuy nhiên, vấn đề cấp bách nhất hiện nay không phải là giải quyết xung đột trong lĩnh vực chuyên môn, mà là khả năng giải quyết những bất đồng nảy sinh trong môi trường thiếu niên.

Trong nhiều năm, các nhà tâm lý học, nhà xã hội học đã nghiên cứu các vấn đề của tuổi dậy thì, nhưng cho đến ngày nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết. Tuổi vị thành niên được coi là độ tuổi gây tranh cãi nhất và đặc biệt nhạy cảm. Khi trẻ đến tuổi dậy thì, chúng cố gắng sống tách biệt với người lớn, chúng tạo ra một văn hóa nhóm đặc biệt dựa trên những chuẩn mực nhất định, nguyên tắc đạo đức, niềm tin. Nó được đặc trưng bởi các hình thức cụ thể của hành vi, quần áo đặc biệt, một ngôn ngữ đặc biệt, biểu tượng ban đầu, thuộc tính và nghi lễ. Văn hóa nhóm này là không thể hiểu được đối với người lớn, những người coi thanh thiếu niên là trẻ em không thể đưa ra quyết định độc lập và có cảm xúc nghiêm trọng. Hiểu lầm của người lớn là một trong những thành phần chính của sự bất đồng trong môi trường thiếu niên.

Xung đột đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành các phẩm chất mới của nhân vật và trong sự biến đổi cá nhân.

Tương tác xung đột ở tuổi dậy thì xảy ra theo ba hướng: một thiếu niên – một thiếu niên, một thiếu niên – cha mẹ và một thiếu niên – giáo viên.

Trong số thanh thiếu niên, tương tác xung đột dựa trên sự đối đầu, mục tiêu của nó là lãnh đạo. Ở đây, các yếu tố chính của một phong cách hành vi mâu thuẫn là địa vị, mức độ yêu sách ( tham vọng ) và lòng tự trọng .

Do đó, chúng ta có thể rút ra một thuật toán duy nhất để giải quyết các xung đột trường học:

– trong lượt đầu tiên, cần phải giữ bình tĩnh;

– thứ hai, cần phân tích các tình huống không có thăng trầm;

– thứ ba, điều quan trọng là duy trì một cuộc đối thoại cởi mở giữa các đối thủ, để có thể lắng nghe phía đối lập, bình tĩnh nêu quan điểm của riêng bạn về vấn đề;

– thứ tư, cần phải khám phá các mục tiêu và phương pháp chung để giải quyết vấn đề, điều này sẽ cho phép chúng ta đi đến những mục tiêu này;

– thứ năm, bắt buộc phải dự trữ các kết quả sẽ cho phép chúng tôi tránh các cuộc đụng độ tương tự trong tương lai.

Giải quyết xung đột ở tuổi thiếu niên có thể đạt được theo ba cách: đàn áp, nhượng bộ (thỏa hiệp) và hợp tác.

Trái với niềm tin phổ biến, việc giải quyết xung đột ở tuổi vị thành niên thông qua sự đàn áp không phải lúc nào cũng quá tệ. Ví dụ, trong những tình huống cực kỳ khó khăn. Ức chế bao gồm việc đặt trách nhiệm lên vai của chính mình theo nghĩa tích cực của nó. Tuy nhiên, việc lạm dụng phong cách quản lý xung đột này dẫn đến sự phát triển của sự phục tùng do sợ hãi , cay đắng, bí mật và không có khả năng đưa ra quyết định.

Một cách thỏa hiệp để giải quyết quá trình xung đột là sự nhượng bộ lẫn nhau.

Phương pháp giải quyết các bất đồng thông qua hợp tác dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau của các bên, kỹ năng giao tiếp và các quyết định mang tính xây dựng.

Giải quyết xung đột ở tuổi thiếu niên cũng có thể đạt được bằng các kỹ thuật sau:

– cách tiếp cận sáng tạo (biến vấn đề thành cơ hội tiềm năng cho bản thân);

– tự khẳng định tối ưu, bao gồm tấn công một vấn đề cụ thể, và không phải trên cá nhân;

– quản lý cảm xúc;

– phát triển các lựa chọn thay thế;

– lập kế hoạch hiệu quả, phát triển các lựa chọn cho chiến lược (đàm phán);

– trung gian.

Giải quyết xung đột

Cho dù mọi người cố gắng tránh đụng độ như thế nào trong cuộc sống hàng ngày, điều này là không thể. Xung đột là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Do đó, cần nghiên cứu các cơ chế phát sinh mâu thuẫn, để biết các hướng có thể của quá trình và sự phát triển của các cuộc đối đầu, và cũng để biết cách ngăn chặn và giải quyết chúng.

Việc lựa chọn phương pháp ngăn chặn và quản lý cuộc đối đầu được xác định bởi sự ổn định về cảm xúc của cá nhân, phương tiện sẵn có để bảo vệ lợi ích của một người khác, số lượng quyền hạn có sẵn và một số yếu tố khác.

Ngoài ra, bạn cần hiểu rằng việc giải quyết xung đột phụ thuộc vào phương pháp giải quyết xung đột được chọn.

Một ví dụ về xung đột và giải pháp của nó trong các mối quan hệ gia đình. Trong một gia đình của cặp vợ chồng mới cưới sống trên lãnh thổ của cha mẹ của một trong các bên, nảy sinh mâu thuẫn giữa hai vợ chồng vì những bất đồng về cuộc sống gia đình: người đàn ông tin rằng vợ / chồng nên làm tất cả việc nhà vì cô ta là phụ nữ. Ngược lại, người phối ngẫu tin rằng cả hai đối tác nên tham gia vào các hoạt động gia đình, tùy thuộc vào khối lượng công việc và thời gian rảnh rỗi. Nếu vợ chồng chọn một mô hình hành vi phá hoại trong một vụ va chạm, thì cha mẹ sống với họ cũng sẽ tham gia vào cuộc đối đầu, do đó mâu thuẫn có thể đạt đến tỷ lệ như vậy mà không thể giải quyết mà không mất.

Một giải pháp mang tính xây dựng cho xung đột là có thể theo thuật toán phổ quát sau đây. Bước đầu tiên trong việc giải quyết một vấn đề cấp bách là thiết lập một bầu không khí tin cậy có lợi cho sự hợp tác. Nói cách khác, nếu người vợ bắt đầu cuộc trò chuyện bằng một tiếng khóc hoặc trách móc, không chắc họ có thể giải quyết một cách xây dựng mâu thuẫn. Giai đoạn tiếp theo là sự phối hợp trong nhận thức của đối thủ. Ở đây, một trong các bên tham chiến phải đồng ý với lập luận của bên kia, ít nhất là một phần. Nếu không, phía bên kia sẽ không muốn lắng nghe các đối số của đối thủ. Sự đồng ý, thậm chí một phần, sẽ làm giảm mong muốn của phía đối lập để chứng minh sự vô tội của chính họ và tăng mong muốn lắng nghe người đối thoại. Sau khi cả hai bên xung đột lắng nghe những tranh luận của nhau và đồng ý một phần với họ, chúng ta có thể tiến hành giai đoạn tiếp theo – điều phối lợi ích của đối thủ (tìm kiếm sự thỏa hiệp). Giai đoạn thứ tư là việc thông qua các quyết định nhằm giải quyết xung đột và tính đến lợi ích của cả hai bên tham gia. Trong trường hợp này, cần phải phân chia công việc gia đình hàng ngày giữa vợ hoặc chồng hoặc phân chia công việc gia đình theo ngày trong tuần. Bước cuối cùng là thực hiện các thỏa thuận đạt được.

Lượt xem: 29 051

Lợi Ích Của Xung Đột

Hầu hết mọi người thường có khuynh hướng né tránh xung đột tại nơi làm việc. Tuy nhiên, sự né tránh này sẽ cản trở các quyết sách quan trọng của một đội ngũ.

Thông thường, nhân viên không chủ động giải quyết sự khác biệt về quan điểm, nhưng khi rời cuộc họp, họ sẽ nói với các đồng nghiệp cùng chí hướng. Cách hành xử này phân chia nhân viên thành nhiều nhóm nhỏ, mỗi nhóm chỉ quan tâm đến mục tiêu riêng. Theo Keith Ferrazzi, điều này là hành vi không lành mạnh.

Keith Ferrazzi là nhà sáng lập, Giám đốc điều hành (CEO) của Công ty Tư vấn Ferrazzi Greenlight, cũng là tác giả các cuốn sách Ai che lưng cho bạn và Đừng bao giờ đi ăn một mình… Ông cho biết trong thực tế, tồn tại sự khác biệt không hoàn toàn là điều xấu. Thẳng thắn đối mặt với sự khác biệt, tuân thủ một số nguyên tắc nhất định để khép lại sự khác biệt có thể giúp đào tạo đội ngũ gắn kết, tăng đáng kể hiệu quả công việc.

Tuy nhiên, hầu hết tài liệu về quản lý xung đột tại nơi làm việc đều lấy mô hình cách đây 40 năm, trong đó, chọn giải pháp né tránh là một trong năm chiến lược quan trọng để giải quyết mâu thuẫn. “Sự né tránh sẽ cản trở hợp tác trong các quyết sách quan trọng của đội ngũ, dẫn đến quyết sách thất bại. Vì vậy, đây không phải là chiến lược hiệu quả”, ông Ferrazzi nói.

Đặt tất cả trên cùng một chuyến tàu

Để giải quyết mâu thuẫn, ông Ferrazzi cho rằng bước đầu tiên, các công ty cần đảm bảo nhất quán mục tiêu của mỗi đơn vị doanh nghiệp với tổ chức. Quy mô công ty càng lớn, sản phẩm càng đa dạng, độ khó trong việc đảm bảo sự nhất quán này càng cao. Mục tiêu mâu thuẫn nhau có nhiều khả năng gây ra xung đột giữa các nhân viên.

Đảm bảo phần thưởng của mỗi người gắn liền với mục tiêu của công ty, cho nhân viên biết họ cần đặt mục tiêu của công ty lên hàng đầu là cách làm của cựu CEO Công ty Sunoco – bà Lynn Elsenhans. Việc liên kết tiền thưởng của nhân viên với mục tiêu của công ty là để tất cả mọi người tham gia vào các cuộc đối thoại của công ty.

Bà Elsenhans nói thêm, làm như vậy sẽ mang lại kết quả tự nhiên, mọi người sẽ bắt đầu nghĩ không bao giờ để cho nhau thất vọng.

Luận việc, không luận người

Làm thế nào để đào tạo đội ngũ nhân viên giải quyết vấn đề một cách lành mạnh? Đạt thỏa thuận mà không nhượng bộ (Getting to Yes: Negotiating Agreement Without Giving In) của Roger Fisher và William chúng tôi là cuốn sách tốt để tham khảo. Các tác giả nhấn mạnh việc cần quan tâm trực tiếp đến các vấn đề mà công ty hoặc đội nhóm phải đối mặt chứ không quan tâm đến các cá nhân đại diện cho sự khác biệt, nếu không, chỉ làm cho xung đột leo thang và phân tán sự chú ý tới vấn đề chính của công ty.

Điểm chính mà cuốn sách đề cập là người ta có xu hướng cố chấp trong lập trường, không hợp tác tìm giải pháp. Công ty cần đào tạo nhân viên thoát khỏi cái tôi để xem xét vấn đề, nỗ lực xác định lợi ích căn bản của người khác, như: “Có phải họ lo lắng làm theo đề xuất của bạn sẽ dẫn đến doanh số bán hàng giảm?”, “có phải họ lo lắng sẽ gây ra sự không hài lòng của khách hàng?”, “có phải họ lo lắng uy tín của đội nhóm sẽ bị ảnh hưởng?”…

Fisher và chúng tôi cũng viết trong cuốn sách rằng lập trường có thể không hòa hợp nhưng lợi ích có thể dung hòa. Nếu xác định lợi ích căn bản giữa các bên mâu thuẫn, có thể tìm thấy giải pháp đáp ứng nhu cầu quan trọng nhất của tất cả các bên.

Ông Ferrazzi dẫn trường hợp Reuters và Thompson sáp nhập năm 2008, CEO Devin Wenig gặp thách thức làm thế nào để dung hợp hai nhóm nhân viên cạnh tranh với nhau trước đây. Hai công ty có tổng cộng 50.000 nhân viên tại hơn 93 nước, môi trường có thể có tác động rất lớn. Ông Wenig đã quyết định tạo ra một đội ngũ không để đối phương thất vọng. Ông Wenig cho biết: “Xây dựng đội ngũ gắn kết là nhiệm vụ hàng đầu của tôi.

Sau giai đoạn đầu tiên, nhân viên của Wenig bắt đầu mở lòng, xem sự khác biệt là bình thường, mọi người đều có ưu và nhược điểm riêng. Sau đó, đến giai đoạn thứ hai: tạo ra môi trường mà mọi người có thể đưa ra quan điểm của họ cho người khác. Ví dụ, một nhà quản lý cấp cao đã phê bình Wenig luôn không tập trung khi giải quyết vấn đề. Trong khi người quản lý này lo lắng hành vi của anh ta đã đi quá giới hạn, Wenig không chỉ tiếp nhận phê bình mà còn thay đổi hành vi của bản thân. Các nhân viên khác cũng cảm ơn vị quản lý này vì anh ta đã nói ra vấn đề họ nghĩ nhưng không dám nói.

Không phải tất cả công ty đều sẵn sàng chấp nhận cách làm thẳng thắn như vậy nhưng tất cả những người lãnh đạo đội nhóm đều có thể áp dụng cách này để thiết lập văn hóa thành thực và hỗ trợ lẫn nhau. Cách làm này sẽ có lợi cho sự đào tạo gắn kết đội ngũ, cải thiện đáng kể hiệu quả công việc.

Xung Đột Lợi Ích Trong Đấu Thầu Xây Lắp

Từ khóa: Đấu thầu xây lắp, xung đột lợi ích.

Trong quá trình tổ chức đấu thầu xây lắp, xuất hiện nhiều tình huống có xung đột lợi ích. Những tình huống có xung đột lợi ích này có khả năng dẫn đến những quyết định không phù hợp của những người được trao quyền, ảnh hưởng tới lợi ích chung của cả quá trình tổ chức đấu thầu, ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của các nhà thầu khi tham dự đấu thầu. Bài viết này tập trung làm rõ quan niệm về xung đột lợi ích trong đấu thầu xây lắp, nhận biết các tình huống xung đột lợi ích trong đấu thầu xây lắp, để từ đó đề xuất các kiến nghị nhằm hạn chế sự tham gia của các chủ thể có xung đột lợi ích vào quá trình đấu thầu, tăng cường các biện pháp kiểm soát, giám sát đối với các tình huống có xung đột lợi ích trong đấu thầu xây lắp.

Theo từ điển Luật học tiếng Anh của Black, “xung đột lợi ích là tình huống ảnh hưởng đến quyết định vì có xung đột giữa lợi ích của cá nhân và lợi ích công”1. Theo từ điển tiếng Anh của Cambridge, “xung đột lợi ích là tình huống mà một người không thể đưa ra quyết định tốt, vì bị chi phối bởi lợi ích cá nhân”2. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế OECD (2005), “xung đột lợi ích là xung đột giữa chức trách nhà nước và lợi ích cá nhân của một công chức, trong đó công chức có những lợi ích ở phương diện cá nhân có thể gây ảnh hưởng không phù hợp đến kết quả thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm công chức của mình”3. Như vậy, các quan niệm về xung đột lợi ích tương đối thống nhất. Theo đó, xung đột lợi ích là một tình huống có xung đột giữa lợi ích cá nhân của người ra quyết định và lợi ích công, dẫn đến khả năng người đó ra quyết định không phù hợp khi quyết định những công việc thuộc nhiệm vụ, chức trách của mình. Xung đột lợi ích có một số đặc điểm: (1) là một tình huống có mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân của người được trao quyền quyết định với lợi ích công; (2) có khả năng người ra quyết định bị lợi ích cá nhân chi phối mà ra quyết định không phù hợp với nhiệm vụ, chức trách của mình.

Xung đột lợi ích là tình huống có khả năng dẫn đến những hành vi sai phạm của người có chức trách, nhiệm vụ. Vì vậy, loại trừ các trường hợp xung đột lợi ích sẽ phòng ngừa được các hành vi sai phạm khi ra quyết định của những người có chức trách, nhiệm vụ. Theo Ngân hàng Thế giới và Thanh tra Chính phủ Việt Nam (2023), xung đột lợi ích gồm các hình thức chủ yếu, như 4:

– Giữa người có chức trách ra quyết định và đối tượng chịu ảnh hưởng từ quyết định đó có liên hệ với nhau thông qua việc tặng và nhận quà tặng. Người ra quyết định nhận quà tặng bằng hiện vật hoặc phi hiện vật từ đối tượng chịu ảnh hưởng của quyết định. Xung đột giữa lợi ích xuất hiện, do lợi ích cá nhân của việc nhận quà tặng với lợi ích công khi ra quyết định, dẫn đến khả năng người có trách nhiệm sẽ ra các quyết định có lợi cho đối tượng đã tặng quà.

– Giữa người có chức trách ra quyết định và đối tượng chịu ảnh hưởng từ quyết định đó có cùng lợi ích. Nếu đối tượng chịu ảnh hưởng của quyết định được hưởng lợi thì người ra quyết định cũng được chia sẻ lợi ích. Trường hợp này còn được gọi là nhóm lợi ích. Xung đột lợi ích xảy ra, do xung đột giữa lợi ích cá nhân của nhóm với lợi ích công khi người có chức trách ra quyết định. Tình huống này dẫn đến khả năng người được trao quyền ra quyết định có lợi cho doanh nghiệp “sân sau”, từ đó gián tiếp cũng tạo ra lợi ích cho mình.

– Người nắm giữ những chức trách nhất định, có khả năng khai thác các thông tin có được từ vị trí công tác để thực hiện các hành vi thu lợi cá nhân. Xung đột lợi ích xảy ra giữa lợi ích chung của việc bảo mật thông tin với lợi ích cá nhân của người nắm giữ thông tin.

– Người được trao quyền quyết định và các đối tượng có khả năng chịu ảnh hưởng của quyết định có mối quan hệ thân thuộc. Trong trường hợp này, xung đột lợi ích xảy ra giữa lợi ích công với lợi ích riêng của người thân. Quyết định của người được trao quyền không đem lại lợi ích riêng cho chính người ra quyết định, nhưng đem lại lợi ích riêng cho người thân của họ.

Đấu thầu xây lắp và xung đột lợi ích trong đấu thầu xây lắp

“Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu để ký kết và thực hiện hợp đồng cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp; lựa chọn nhà đầu tư để ký kết và thực hiện hợp đồng dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư, dự án đầu tư có sử dụng đất trên cơ sở bảo đảm cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế”5. Căn cứ vào đối tượng của đấu thầu, đấu thầu được phân chia thành các loại: đấu thầu hàng hóa, đấu thầu xây lắp, đấu thầu dịch vụ và đấu thầu hỗn hợp. “Xây lắp là những công việc thuộc quá trình xây dựng và lắp đặt công trình, hạng mục công trình”6. Như vậy, đấu thầu xây lắp được hiểu là quá trình lựa chọn nhà thầu để thực hiện những công việc thuộc quá trình xây dựng và lắp đặt công trình, hạng mục công trình trên cơ sở bảo đảm cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế.

3.2. Xung đột lợi ích trong đấu thầu xây lắp

Trong đấu thầu xây lắp, xuất hiện nhiều chủ thể khác nhau. Nhà thầu trong đấu thầu xây lắp là tổ chức, cá nhân có đủ năng lực hoạt động xây dựng, năng lực hành nghề xây dựng tham dự đấu thầu để giành quyền ký kết và thực hiện hợp đồng. Ngoài nhà thầu, các chủ thể khác như bên mời thầu, chủ đầu tư, người có thẩm quyền, tổ chuyên gia, tổ chức thẩm định đều giữ những vai trò nhất định trong quá trình tổ chức lựa chọn nhà thầu và có khả năng xung đột lợi ích. Xung đột lợi ích trong đấu thầu là tình huống có xung đột giữa lợi ích cá nhân người có chức trách, nhiệm vụ trong quá trình tổ chức đấu thầu và lợi ích công, dẫn đến khả năng người đó ra quyết định không phù hợp khi quyết định những công việc thuộc chức trách, nhiệm vụ của mình. Xung đột lợi ích trong đấu thầu xây lắp có một số đặc điểm: (1) Xung đột lợi ích trong đấu thầu xây lắp là tình huống có khả năng xảy ra trong quá trình tổ chức đấu thầu xây lắp, từ giai đoạn lập kế hoạch đấu thầu, soạn các tài liệu đấu thầu, mời thầu, tiếp nhận hồ sơ dự thầu, đánh giá xếp hạng hồ sơ dự thầu, thương thảo hợp đồng, phê duyệt và công khai kết quả lựa chọn nhà thầu; (2) Xung đột lợi ích gắn liền với những người có chức trách, nhiệm vụ nhất định trong tổ chức đấu thầu. Khi thực hiện chức trách, nhiệm vụ đó, họ phải bảo vệ những lợi ích chung xuất phát từ yêu cầu của việc tổ chức đấu thầu; (3) Có mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân của người được trao quyền quyết định với lợi ích chung và có khả năng người ra quyết định bị lợi ích cá nhân chi phối mà ra quyết định không phù hợp với nhiệm vụ, chức trách của mình.

Xung đột lợi ích xảy ra trong đấu thầu bao gồm nhiều loại như:

– Giữa người có chức trách ra quyết định trong quá trình tổ chức đấu thầu (như bên mời thầu7, chủ đầu tư8, người có thẩm quyền9, tổ chuyên gia10, tổ chức thẩm định11) và nhà thầu có liên hệ với nhau thông qua việc tặng và nhận quà tặng. Người ra quyết định nhận quà tặng bằng hiện vật hoặc phi hiện vật từ các nhà thầu. Xung đột giữa lợi ích xuất hiện, dẫn đến khả năng người có trách nhiệm sẽ ra các quyết định có lợi cho nhà thầu tặng quà.

– Giữa người có chức trách ra quyết định (như bên mời thầu, chủ đầu tư, người có thẩm quyền, tổ chuyên gia, tổ chức thẩm định) và nhà thầu có cùng lợi ích. Nếu nhà thầu được hưởng lợi thì người ra quyết định cũng được chia sẻ lợi ích. Trường hợp này còn được gọi là nhóm lợi ích. Xung đột lợi ích xảy ra, dẫn đến khả năng người được trao quyền ra quyết định có lợi cho nhà thầu sân sau, từ đó gián tiếp cũng tạo ra lợi ích cho mình. Các trường hợp có xung đột lợi ích, như: nhà thầu tham dự gói thầu tham dự gói thầu do mình làm bên mời thầu, chủ đầu tư; Nhà thầu và chủ đầu tư, bên mời thầu cùng thuộc một cơ quan hoặc tổ chức trực tiếp quản lý hoặc có cổ phần vốn góp của nhau; Nhà thầu và đơn vị tư vấn cho gói thầu đó cùng thuộc một cơ quan, tổ chức quản lý trực tiếp hoặc có cổ phần, vốn góp của nhau hoặc có cùng cổ phần, vốn góp tại doanh nghiệp khác. Trong những trường hợp này, do bị ảnh hưởng từ lợi ích cá nhân được chia sẻ mà người có trách nhiệm sẽ ra quyết định không phù hợp với lợi ích chung của việc tổ chức đấu thầu.

– Người được trao quyền quyết định trong đấu thầu và các nhà thầu có mối quan hệ thân thuộc. Trong trường hợp người tham gia quyết định trong đấu thầu có cha mẹ đẻ, cha mẹ vợ, cha mẹ chồng, vợ hoặc chồng, con đẻ, con nuôi, con dâu, con rể, anh chị em ruột đứng tên dự thầu hoặc là người đại diện theo pháp luật của nhà thầu, xung đột lợi ích xảy ra giữa lợi ích chung của đấu thầu với lợi ích riêng của người thân, dẫn đến khả năng người được trao quyền ra quyết định có lợi cho người thân.

Theo kết quả khảo sát của Ngân hàng Thế giới và Thanh tra Chính phủ (2023), đối với người dân, doanh nghiệp và các cán bộ, công chức viên chức nhà nước tại 10 tỉnh, thành phố và 5 cơ quan Bộ, cho thấy đa số mọi người chưa hiểu đúng về xung đột lợi ích.

Kết quả khảo sát cho thấy, đa số mọi người nhận thức được mối quan hệ giữa nhà nước và tư nhân có xu hướng bị thương mại hóa, trong đó các nhóm và cá nhân có ảnh hưởng gây tác động đến quyết định của cơ quan nhà nước. Người dân và doanh nghiệp đều cho rằng mối quan hệ với cơ quan nhà nước rất quan trọng đối với sự thành công trong kinh doanh và các nhóm lợi ích đang có tầm ảnh hưởng ngày một lớn13. Khảo sát doanh nghiệp có tham gia đấu thầu với các cơ quan nhà nước, có 36% cho rằng cuộc đấu thầu đó là khách quan, minh bạch, trong khi 38% tin rằng có chạy chọt và 50% cho rằng có sự ưu ái người thân14. Đa số mọi người lại cho rằng không phải truyền thống văn hóa dẫn đến tình huống xung đột lợi ích do việc tặng quà hay chia sẻ lợi ích, mà do lợi ích cá nhân, thậm chí hối lộ từ phía nhà thầu15. Vấn đề kiểm soát xung đột lợi ích trong nội bộ, có 25-40% cán bộ, công chức, viên chức được khảo sát cho rằng cơ quan họ không thực hiện các biện pháp kiểm soát xung đột lợi ích theo quy định, như báo cáo việc nhận quà, không được hỗ trợ doanh nghiệp thân quen, không làm việc trong một số lĩnh vực sau khi thôi công tác16.

Hiện nay, pháp luật chưa có định nghĩa cụ thể về xung đột lợi ích. Trong pháp luật đấu thầu, các tình huống xung đột lợi ích chưa được quy định riêng mà lồng ghép vào một số quy định về bảo đảm cạnh tranh và quy định về các hành vi bị cấm trong đấu thầu17.

Kiến nghị một số giải pháp kiểm soát xung đột lợi ích trong đấu thầu xây lắp

Để nhận thức được các tình huống xung đột lợi ích trong đấu thầu xây lắp, từ đó kiểm soát tốt các tình huống xung đột lợi ích và bảo đảm lợi ích chung được đặt ra khi tổ chức đấu thầu, bảo đảm cạnh tranh công bằng giữa các nhà thầu, bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn ngân sách, cần phải thực hiện một số vấn đề sau:

Thứ hai, cần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật về xung đột lợi ích trong đấu thầu xây lắp. Để có thể thực hiện tốt các quy định của pháp luật, trước hết cần phải có sự nhận thức rõ ràng của những người thực hiện pháp luật, từ các cán bộ quản lý nhà nước về đấu thầu; cán bộ dân cử thực hiện vai trò giám sát; các cán bộ thanh tra, kiểm tra về đấu thầu; các cán bộ giải quyết kiến nghị, tranh chấp đấu thầu; các chủ thể trực tiếp tham gia vào quá trình đấu thầu (nhà thầu, bên mời thầu, chủ đầu tư, người có thẩm quyền, tổ chuyên gia, tổ thẩm định, tư vấn). Việc nhận thức được các tri thức mới về lý luận và pháp luật về xung đột lợi ích trong đấu thầu xây lắp được thực hiện nhanh nhất qua con đường đào tạo, bồi dưỡng bắt buộc đối với những người tham gia vào quá trình đấu thầu. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cũng nhằm để mọi công dân có quyền tiếp cận với tri thức lý luận và quy định của pháp luật về xung đột lợi ích trong đấu thầu xây lắp, là cơ sở để nâng cao dân trí, tạo sự đồng thuận xã hội trong thực hiện pháp luật, nâng cao hiệu quả giám sát xã hội đối với hoạt động đấu thầu xây lắp.

Thứ ba, cần triển khai việc áp dụng công nghệ mạng và điện tử vào công tác đấu thầu. Cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đã tác động đến các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tổ chức đấu thầu. Với trình độ công nghệ điện tử hiện nay, các dữ liệu trong đấu thầu có thể được thể hiện dưới dạng dữ liệu điện tử, máy công nghệ điện tử có khả năng rà soát, đánh giá, phát hiện và cảnh báo các trường hợp có xung đột lợi ích.

Thứ tư, cần tăng cường trách nhiệm giám sát, kiểm tra, thanh tra để kịp thời phát hiện và xử lý các trường hợp xung đột lợi ích trong đấu thầu xây lắp. Cần xây dựng cơ chế giám sát nội bộ và giám sát độc lập ngoài quá trình đấu thầu. Giám sát nội bộ được thực hiện thông qua việc giám sát của chính đơn vị và các nhân viên trong đơn vị của người tham gia vào đấu thầu. Để thực hiện giám sát nội bộ, đơn vị phải có quy trình rõ ràng, chi tiết về việc tổ chức đấu thầu và tham gia vào đấu thầu; Thực hiện cơ chế lưu trữ thông tin, dữ liệu và công khai, minh bạch trong nội bộ đơn vị, công khai với bên ngoài; Phát huy vai trò của các tổ chức kiểm soát, kiểm toán nội bộ trong đơn vị; Tạo cơ chế thuận lợi cho việc người trong đơn vị tố cáo các tình huống xung đột; Giám sát nội bộ còn được thực hiện bởi sự giám sát lẫn nhau giữa các chủ thể tham gia vào quá trình đấu thầu. Bằng việc truy cứu trách nhiệm rõ ràng, các chủ thể sẽ giám sát hoạt động lẫn nhau. Các chủ thể tham gia vào bên tổ chức đấu thầu cũng giám sát lẫn nhau, các nhà thầu tham dự cũng giám sát lẫn nhau và các nhà thầu giám sát hoạt động của bên tổ chức đấu thầu. Giám sát từ bên ngoài đến quá trình đấu thầu bằng hoạt động giám sát của cơ quan quản lý chuyên ngành về đấu thầu, cơ quan thanh tra, cơ quan kiểm toán, cơ quan dân cử, các hiệp hội và cộng đồng xã hội.

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN:

1 Xem Blacks Law Dictionary, https://thelawdictionary.org/conflict-of-interest/

2 Xem Cambridge Dictionary, https://dictionary.cambridge.org/vi/dictionary/english/conflict-of-interest

3 OECD (2005), Managing Conflict of Interest in the Public Sector, tr. 13.

4 Xem Ngân hàng Thế giới & Thanh tra Chính phủ (2023), Kiểm soát xung đột lợi ích trong lĩnh vực công: Quy định và thực tiễn ở Việt Nam, NXB Hồng Đức, Hà Nội, tr. 23.

5 Xem Khoản 12 Điều 4 Luật Đấu thầu 2013.

6 Xem Khoản 45 Điều 4 Luật Đấu thầu 2013.

7 Bên mời thầu trong đấu thầu xây lắp là cơ quan, tổ chức có chuyên môn và năng lực để thực hiện các hoạt động tổ chức lựa chọn nhà thầu, có trách nhiệm chuẩn bị lựa chọn nhà thầu, thành lập tổ chuyên gia, tổ chức đánh giá lựa chọn nhà thầu, trình duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu.

8 Chủ đầu tư là tổ chức sở hữu vốn hoặc tổ chức được giao thay mặt chủ sở hữu vốn, tổ chức vay vốn trực tiếp quản lý quá trình thực hiện dự án, có trách nhiệm phê duyệt các nội dung trong quá trình đấu thầu, quyết định xử lý tình huống trong đấu thầu, giải quyết kiến nghị, xử lý vi phạm trong đấu thầu.

9 Người có thẩm quyền là người quyết định phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình, có trách nhiệm phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu; tổ chức kiểm tra, giám sát, theo dõi công tác đấu thầu; giải quyết kiến nghị trong đấu thầu; xử lý vi phạm trong đấu thầu.

10 Tổ chuyên gia gồm các cá nhân có năng lực, kinh nghiệm được bên mời thầu hoặc đơn vị tư vấn đấu thầu thành lập để đánh giá hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển, hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất và thực hiện các nhiệm vụ khác trong quá trình lựa chọn nhà thầu.

11 Tổ chức thẩm định làm nhiệm vụ kiểm tra, đánh giá kế hoạch lựa chọn nhà thầu, hồ sơ mời quan tâm, hồ sơ mời sơ tuyển, hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu và kết quả mời quan tâm, kết quả sơ tuyển, kết quả lựa chọn nhà thầu để làm cơ sở xem xét, quyết định phê duyệt theo quy định của pháp luật

12 Xem Ngân hàng thế giới & Thanh tra Chính phủ (2023), sđd, tr.40.

13 Xem Ngân hàng thế giới & Thanh tra Chính phủ (2023), sđd, tr.15

14 Xem Ngân hàng thế giới & Thanh tra Chính phủ (2023), sđd, tr.11.

15 Xem Ngân hàng thế giới & Thanh tra Chính phủ (2023), sđd, tr.10.

16 Xem Ngân hàng thế giới & Thanh tra Chính phủ (2023), sđd, tr.12.

17 Xem Điều 6 và Điều 89 Luật Đấu thầu 2013.

18 Xem World Bank (2023), Procurement Regulations for IPF Borrowers, April 2023 – Second Edition. Pages 5-11.

19 JICA(2012), Handbook for Procurement under Japanese ODA Loans. Page 72.

Blacks Law Dictionary, https://thelawdictionary.org/conflict-of-interest/

Cambridge Dictionary, https://dictionary.cambridge.org/vi/dictionary/english

JICA(2012), Handbook for Procurement under Japanese ODA Loans.

Luật Đấu thầu 2013.

Ngân hàng Thế giới và Thanh tra Chính phủ (2023), Kiểm soát xung đột lợi ích trong lĩnh vực công: Quy định và thực tiễn ở Việt Nam, NXB Hồng Đức, Hà Nội.

OECD (2005), Managing Conflict of Interest in the Public Sector.

World Bank (2023), Procurement Regulations for IPF Borrowers, April 2023 – Second Edition.

THE CONFLICT OF INTEREST IN CONSTRUCTION BIDDING

Master. Nguyen Huu Manh

Faculty of Law, National Economics University

Abstract:

The conflict of interest in the construction bidding is a conflict between the personal interests and the public interests, leading to the possibility that the head will make improper decisions that are incompatible with the public interests due to his or her own interests. The conflict of interest in the construction bidding is manifested through situations including the contractor presents gifts to the owner, the contractor and the owner share same interests, the contractor has a close relationship with the owner, or the contractor is able to acquire information related the bidding to benefit itself. In order to control the conflict of interest, ensure the public interests of the bidding, ensure fair competitions among contractors and ensure the effectiveness of using the budget, it is necessary to specific forms of the conflict of interest in bidding, strengthen the training, propagating and educating laws on the conflict of interest in the construction bidding, using network and electronic technologies to review, assess, detect and warn the conflict of interests, and intensify responsibilities of supervision, inspection in order to promptly detect and handle the conflict of interests in construction bidding.

Keywords: Construction bidding, conflict of interest.