Vị Trí Cấu Tạo Và Chức Năng Của Tuyến Yên / Top 10 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Nhatngukohi.edu.vn

Tuyến Yên Là Gì? Cấu Tạo Và Chức Năng Của Tuyến Yên

Tuyến yên là gì?

Tuyến yên hay còn gọi là tuyến não thùy là một tuyến nội tiết kích thước của tuyến yên chỉ bằng hạt đậu và có khối lượng bằng 0.5g nằm ở sàn não thất ba, trong hố yên của thân xương bướm. Tuyến yên là một phần quan trọng của một hệ thống tín hiệu đặc biệt, giúp điều hòa nhiều chức năng khác nhau của cơ thể. Tuyến yêngiúp kiểm soát các chức năng đó bằng cách phóng thích các hormone vào máu.

Cấu tạo của tuyến yên

Cấu tạo của tuyến yên được chia làm ba thùy: thùy trước, thuỳ giữa và thuỳ sau.

Cấu tạo tuyến yên

Thùy trước: Được chia làm 3 phần gồm phần phễu, phần trung gian, và phần xa. Thùy trước tuyến yên có đặc tính là một tuyến nội tiết, nó có hai loại tế bào là tế bào ưa axit tiết ra hormone GH và Prolactin, tế bào ưa kiềm tiết ra ACTH, TSH, FSH, LH, Lipoprotein.

Thùy giữa: Ở người chỉ có một lớp tế bào mỏng. Thuỳ giữa tuyến yên tiết ra MSH. Động mạch cung cấp máu cho tuyến yên là hai nhánh động mạch tuyến yên trên và động mạch tuyến yên dưới, cả hai nhánh động mạch đều bắt đầu từ động mạch cảnh trong.

Thùy sau: Gồm các tế bào gần như các tế bào mô thần kinh đệm, các tế bào này không có khả năng bài tiết hormone. Chúng chứa các hormone do vùng dưới đồi bài tiết đó là Vasopressin và Oxytoxin.

Chức năng của tuyến yên

Chức năng của tuyến yên gồm sản sinh ra hormone quyết định sự tăng trưởng của cơ thể (GH) và sự tăng trưởng phát triển các tuyến sinh dục (LH, FSH). Đặc biệt các hormone tuyến yên còn có tác dụng điều hòa hầu hết các tuyến nội tiết khác, nên tuyến yên được coi là đầu đàn trong các tuyến hệ nội tiết

Tuyến yên sản sinh hormone làm tăng hấp thu nước ở ống lượn xa và ống góp. Nếu thiếu hormone này thì nước không thể tái hấp thu ở thận gây bệnh đái tháo nhạt Và một loại hormone khác có tác dụng làm tăng co bóp cơ tử cung Phụ nữ có thai thường có nồng độ hormone này tăng cao trong máu. Đến giai đoạn sinh, tác dụng của hormone này làm co bóp mạnh cơ tử cung và giúp em bé ra ngoài.

Tuyến yên là đầu đàn trong các tuyến hệ nội tiết

Tuyến yên có tầm quan trọng sinh tử nhưng lại có tầm vóc rất nhỏ bé. Nó nằm dính liền dưới não và được che chở bằng một cấu trúc xương.Tuyến yên điều khiển sự tăng trưởng của trẻ nhỏ bằng cách tác động vào một tuyến khác là tuyến giáp

Bướu hay khối u mọc trong tuyến yên có thể khiến cho hoạt động quá mức hoặc dưới mức cần thiết. Một trong những kết quả của hoạt động quá mức của tuyến yên là người sẽ cao lớn bất thường và khi hoạt động dưới mức thì người sẽ có vóc dáng nhỏ bé.

Cấu Trúc Và Chức Năng Của Tuyến Yên

Tuyến yên là một tuyến nhỏ, đường kính khoảng 1 cm, nằm trong hố yên của xương bướm. Nó có kích thước bằng hạt đậu và khối lượng 0.5g nằm ở sàn não thất ba. Đây là một tuyến quan trọng giữ vai trò chỉ đạo hoạt động của hầu hết các tuyến nội tiết khác.

Tuyến yên là một tuyến hỗn hợp. Dựa vào hình thể, nguồn gốc thai và chức năng, người ta chia tuyến yên làm ba thùy: thùy trước, thuỳ giữa và thuỳ sau.

2.1. Thùy trước (tuyến yên bạch)

Thùy trước được chia làm 3 phần: phần phễu, phần trung gian, và phần xa (hay phần hầu). Tuyến yên trước có tính chất là một tuyến nội tiết thật sự. Nó gồm hai loại tế bào:

Tế bào ưa acid tiết ra hormon GH và Prolactin.

Tế bào ưa kiềm tiết ra ACTH, TSH, FSH, LH, Lipoprotein…

Khoảng 30 – 40% tế bào ưa acid, 20% tế bào tuyến là tế bào tổng hợp và bài tiết ACTH. Các loại tế bào còn lại, mỗi loại chỉ chiếm 3 – 5% nhưng có khả năng rất mạnh bài tiết TSH, FSH, LH, PRH.

Các hormon này tham gia vào rất nhiều hoạt động quan trọng của cơ thể như:

Quyết định sự tăng trưởng của cơ thể (GH).

Sự tăng trưởng và phát triển các tuyến sinh dục (LH, FSH).

Đặc biệt các hormon tiền yên còn có tác động điều hòa hầu hết các tuyến nội tiết khác. Nên người ta gọi tuyến yên là đầu đàn trong các tuyến hệ nội tiết.

2.2. Thùy sau tuyến yên

Gồm các tế bào giống như các tế bào mô thần kinh đệm nên còn gọi là thùy thần kinh. Các tế bào không có khả năng bài tiết hormon mà có chức năng hỗ trợ cho các sợi trục. Chúng chứa các hormon do vùng dưới đồi bài tiết ra đó là Vasopressin và Oxytoxin.

Vasopressin (ADH):hay còn gọi là hormon chống đa niệu. Có tác dụng làm tăng hấp thu nước ở ống lượn xa và ống góp của thận. Nếu thiếu hormon này thì nước không thể tái hấp thu ở thận gây bệnh đái tháo nhạt.

Oxytoxin: đây là hormone làm tăng co bóp cơ tử cung. Phụ nữ có thai thường có nồng độ hormone này tăng cao trong máu. Trong chuyển dạ, tác dụng của oxytoxin làm co bóp mạnh cơ tử cung và đẩy thai nhi ra ngoài.

2.3. Thùy giữa tuyến yên

Thường phát triển mạnh ở động vật cấp thấp, ở người chỉ phát triển ở trẻ nhỏ. Thuỳ giữa tuyến yên tiết ra MSH có tác dụng phân bố sắc tố da.

2.4. Mạch máu và thần kinh

Mạch máu được cung cấp từ vùng dưới đồi qua hệ thống cửa dưới đồi-yên. Động mạch cung cấp máu cho tuyến yên là hai nhánh: động mạch tuyến yên trên và động mạch tuyến yên dưới. Cả hai đều xuất phát từ động mạch cảnh trong.

Thần kinh: có ở thùy sau, là bó sợi thần kinh đi từ nhân trên thị và nhân cạnh não thất của vùng dưới đồi xuống.

3. Chức năng của tuyến yên

Chức năng của tuyến yên thể hiện qua tác dụng của những Hormon mà nó tiết ra.

3.1. Các hormon thùy trước

3.1.1. Hormon tăng trưởng (GH)

GH là một phân tử polypeptid, có 191 acid amin, trọng lượng phân tử 22.005.

Tác dụng phát triển cơ thể: tác dụng lên hầu hết các mô cơ thể. Nó kích thích tăng số lượng và kích thước tế bào, tăng kích thước các phủ tạng.

Kích thích phát triển các mô sụn ở đầu xương dài do đó làm thân xương dài ra. Đồng thời mô sụn cũng dần được cốt hoá sao cho đến tuổi vị thành niên. Lúc này đầu xương và thân xương hợp nhất với nhau và xương không dài nữa. GH gây dày màng xương ở xương đã cốt hóa. Tác dụng này rõ trong giai đoạn phát triển và tiếp tục duy trì suốt đời.

Tăng tổng hợp protein, tăng thu nhận acid amin vào tế bào.

Gây tăng đường huyết do làm giảm sử dụng glucose tế bào, tăng dự trữ glycogen tế bào, giảm đưa glucose vào tế bào. Tăng bài tiết insulin và kháng insulin ở mô cơ làm giảm vận chuyển glucose qua màng tế bào.

Tăng huy động mỡ dự trữ nhằm cung cấp năng lượng do đó tăng nồng độ acid béo trong máu. Dưới tác dụng của GH, lipid được sử dụng để tạo năng lượng. Từ đó nhằm tiết kiệm protein dành cho sự phát triển cơ thể.

Nồng độ GH thay đổi tùy lứa tuổi. Vào khoảng 1,5 – 3ng/ml ở người trưởng thành, 6ng/ml ở trẻ em và tuổi dậy thì. Sự bài tiết dao động từng phút và phụ thuộc nhiều yếu tố (hạ đường huyết, vận cơ, chấn thương…). Nồng độ GH cao nhất ban ngày 3 – 4 giờ sau bữa ăn. Ban đêm GH tăng hai giờ đầu giấc ngủ say rồi giảm dần đến sáng.

GH được kiểm soát bởi hai hormon vùng dưới đồi là GRH và GIH qua cơ chế điều hòa ngược. Nồng độ glucose máu giảm, nồng độ acid béo giảm, thiếu protein kéo dài làm tăng tiết GH. Ngoài ra, các tình trạng stress, chấn thương, luyện tập sẽ làm tăng tiết GH.

3.1.2. Hormon kích thích tuyến giáp (TSH)

TSH là một glycoprotein, trọng lượng phân tử khoảng 28.000.

Tất cả các giai đoạn tổng hợp, bài tiết hormon giáp. Dinh dưỡng tuyến giáp và tăng phát triển hệ thống mao mạch của tuyến giáp.

TSH được bài tiết do sự điều khiển của TRH, phụ thuộc vào nồng độ T3, T4 tự do theo cơ chế điều hòa ngược. Nồng độ bình thuờng người trưởng thành là 0,91 mU/L.

3.1.3. Hormon kích thích vỏ thượng thận (ACTH)

ACTH là một polypeptid có 39 acid amin, trọng lượng phân tử 5000. Phần lớn ở dạng tiền chất POMC.

Dinh dưỡng, kích thích sự tổng hợp và bài tiết hormon vỏ thượng thận.

Tác dụng chủ yếu lên lớp bó và lớp lưới bài tiết glucocorticoid và androgen.

Trên tổ chức não, ACTH làm tăng quá trình học tập và trí nhớ.

Do có một phần cấu trúc gần giống MSH nên cũng có tác dụng MSH. Ở người do lượng MSH bài tiết không đáng kể nên chính ACTH có tác dụng kích thích tế bào sắc tố sản suất melanin, do đó sự rối loạn bài tiết ACTH cũng gây tăng hay giảm sắc tố ở da.

Sự bài tiết ACTH do nồng độ CRH của vùng dưới đồi quyết định. Khi nồng độ CRH tăng làm tăng tiết ACTH. Ngoài ra còn do tác dụng điều hoà ngược âm tính và dương tính của cortisol. Đồng thời ACTH cũng được điều hoà theo nhịp sinh học, nồng độ cao nhất từ 6 – 8 giờ sáng. Ở người Việt Nam trưởng thành (lấy máu lúc 8 giờ 30 phút trên 25 nam khoẻ mạnh) nồng độ ACTH là 4,60 pg/ml.

3.1.4. Hormon kích thích bài tiết sữa- Prolactin (PRL)

198 acid amin, trọng lượng phân tử 22.500.

Kích thích tăng trưởng tuyến vú và sự sản xuất sữa lúc có thai và cho con bú. Đồng thời ức chế tác dụng của Gonadotropin tại buồng trứng.

Bình thường prolactine bị ức chế bởi PIH ở vùng dưới đồi. Nó được bài tiết với nồng độ rất thấp, 110 – 510 mU/L ở nam và 80 – 600 mU/L ở nữ. Khi có thai prolactin tăng dần từ tuần thứ 5 của thai kỳ cho tới lúc sinh. Nồng độ tối đa có thể gấp 10 – 20 lần bình thường.

Estrogen và progesteron ức chế bài tiết sữa. Nên khi đứa trẻ sinh ra cả hai hormon trên giảm đột ngột tạo điều kiện cho prolactin phát huy tác dụng bài tiết sữa.

3.1.5. Các hormon hướng sinh dục

Cả FSH và LH đều là các glycoprotein.

FSH (kích noãn tố) có 236 acid amin, trọng lượng phân tử 32.000. Còn LH (kích hoàng thể tố), có 215 acid amin, trọng lượng phân tử 30.000.

FSH ở nam giới tác dụng dinh dưỡng tinh hoàn, phát triển ống sinh tinh và sản sinh tinh trùng. Ở nữ giới kíck thích sự phát triển của các nang trứng trong giai đoạn đầu. Hormon FSH phối hợp với LH làm cho trứng chín, rụng và bắt đầu bài tiết estrogen.

LH Ở nam giới tác dụng dinh dưỡng tế bào Leydig, kích thích sự bài tiết testosteron. Ở nữ giới gây hiện tượng rụng trứng, tiết estrogen. Sau đó tạo hoàng thể và kích thích sự bài tiết progesteron.

Hai hormon trên được điều hòa theo cơ chế điều khiển ngược âm tính của estrogen, progesteron, testosteron và GnRH.

Nồng độ FSH và LH ở nữ dao động trong chu kỳ kinh nguyệt.

3.2. Hormon thùy giữa

3.2.1. POMC (proopiomelanocortin)

Trong tiền yên POMC được thủy phân thành ACTH, MSH, LPH và endorphin.

Trong tuyến yên giữa, POMC được thủy phân thành một peptid giống ACTH là CLIP g-LPH, b-endorphin.

3.2.2. MSH (Melanostimulating hormon)

Kích thích sự tổng hợp melanin trong các tế bào hắc tố (melanocyte).

Chứa các phân tử endorphin và enkephalin là những peptid gắn chất tiếp nhận á phiện (opioid receptor).

3.3. Các hormon thùy sau

Hai hormon được bài tiết từ thuỳ sau tuyến yên có nguồn gốc từ vùng dưới đồi. Chúng do nhân trên thị và nhân cạnh não thất bài tiết. Sau khi được tổng hợp chúng được vận chuyển theo sợi trục đến chứa ở các túi nằm trong tận cùng thần kinh khu trú ở thuỳ sau tuyến yên. Hai hormon đó là oxytocin và ADH.

3.3.1. ADH (antidiuretic hormon)

Chủ yếu là tăng tái hấp thu nước ở ống xa và ống góp. Liều cao gây co mạch, tăng huyết áp nên còn gọi là vasopressin.

Bài tiết phụ thuộc vào áp suất thẩm thấu và thể tích dịch ngoại bào.

Khi áp suất thẩm thấu tăng, nhân trên thị bị kích thích sẽ truyền tín hiệu đến thuỳ sau tuyến yên và gây bài tiết ADH. Thể tích máu giảm, gây kích thích mạnh bài tiết ADH.

3.3.2. Oxytocin

Gây co thắt tế bào biểu mô cơ. Chúng là những tế bào nằm thành hàng rào bao quanh nang tuyến sữa. Những tế bào này co lại sẽ ép vào các nang tuyến và đẩy sữa ra ống tuyến. Khi đứa trẻ bú sẽ nhận được sữa. Tác dụng này gọi là tác dụng bài xuất sữa, khác với tác dụng gây bài tiết sữa của prolactin.

Gây co cơ tử cung mạnh khi có thai, đặc biệt mạnh vào cuối thai kỳ, lúc chuyển dạ.

Oxytocin được bài tiết khi có kích thích trực tiếp vào tuyến vú (động tác mút vú của đứa trẻ) hoặc kích thích tâm lý.

Tuyến yên là cơ quan điều khiển hoạt động của nhiều cơ quan khác trong cơ thể. Hệ thống phản hồi, điều hòa của nó gồm nhiều Hormon phức tạp. Hiểu rõ cấu trúc tuyến yên giúp nhận biết sớm các bất thường và được điều trị kịp thời.

Xương Chày: Vị Trí, Cấu Tạo Và Chức Năng

Xương chày nằm ở phía trước trong của cẳng chân và là xương có kích thước lớn. Nó có vai trò rất quan trọng trong hoạt động của toàn bộ chi dưới. Xương này có nhiệm vụ điều hòa những hoạt động ở khớp gối và khớp cổ chân. Đồng thời, nó cũng chịu lực tì nén chính của cơ thể, cho phép di chuyển một cách linh hoạt.

Xương chày ở đầu trên tiếp khớp với xương đùi, bên dưới khớp với các xương cổ chân.

Xương chày của người Việt dài khoảng 33,6 cm, rất dẹt ngang. Ngoài ra, do thói quen ngồi xổm hay vắt chân, nó bị cong nhiều ra sau ở đầu trên.

Xương chày hơi cong hình chữ S, nửa trên hơi cong ra ngoài còn dưới hơi cong vào trong. Thân xương hình lăng trụ tam giác trên to, dưới nhỏ lại dần. Đến 1/3 dưới cẳng chân thì chuyển thành hình lăng trụ tròn. Vì vậy, đây là điểm yếu dễ bị gãy xương.

Xương chày và xương mác liên kết với nhau như sau:

Đầu trên hai xương nối với nhau bằng khớp chày – mác trên. Đây là một khớp hoạt dịch thuộc loại khớp phẳng. Trong đó, mặt khớp chỏm mác mặt trong tiếp khớp với mặt khớp mác của lồi cầu ngoài xương chày. Khớp này được giữ vững bởi các dây chằng chỏm mác sau và trước.

Bờ gian cốt của hai thân xương được nối với nhau bằng màng gian cốt cẳng chân. Đầu dưới của hai xương liên kết với nhau bằng khớp sợi chày – mác. Mô sợi liên kết mặt trong mắt cá ngoài (đầu dưới xương mác) với khuyết mác của đầu dưới xương chày.

Tiếp khớp với xương đùi

Phần trong đầu dưới xương thấp tạo thành mắt cá trong, nằm ngay dưới da. Mặt ngoài mắt cá trong có diện khớp mắt cá tiếp xúc với diện mắt cá trong của ròng rọc xương sên. Diện khớp mắt cá thẳng góc với diện khớp dưới ở đầu xương chày. Diện khớp dưới tiếp khớp với diện trên của ròng rọc xương sên.

Mặt ngoài đầu dưới hình tam giác có khuyết mác. Đây là nơi xương chày tiếp xúc với đầu dưới xương mác.

nuôi dưỡng xương chày gồm 3 nguồn mạch là :

Động mạch nuôi xương. Đi vào lỗ nuôi xương ở mặt sau chỗ nối 13 giữa và 1/3 trên xương chày.

Động mạch đầu hành xương và động mạch màng xương có nguồn gốc từ các động mạch cơ.

Mạch máu nuôi xương chày rất nghèo và càng về phía dưới thì ít có sự nối thông. Vì thế, gãy xương chày rất khó liền, nhất là đoạn dưới cẳng chân.

3. Chức năng của xương chày

Chịu lực trực tiếp từ toàn bộ trọng lượng cơ thể. Cấu tạo đặc biệt của nó cùng các diện khớp giúp vị thế chân thẳng. Từ đó giúp tư thế và dáng đi của cơ thể thẳng.

Tạo nên khớp gối và khớp mắt cá giúp cơ thể hoạt động linh hoạt.

Xương chày là một trong những vùng xương thường bị gãy nhất trong cơ thể. Tùy theo mức độ của chấn thương mà các triệu chứng của gãy xương chày có thể biểu hiện từ bầm tím đến đau dữ dội ở cẳng chân.

Phân loại gãy xương chày

Để phân loại và chẩn đoán loại chấn thương, bác sĩ sẽ thực hiện khám lâm sàng và đề nghị một số xét nghiệm để kiểm tra tình trạng gãy xương chày.

Gãy đầu trên xương chày

Vỡ hoặc gãy đầu trên xương chày thường là hậu quả của tai nạn té ngã từ trên cao hoặc tai nạn giao thông. Các mô mềm có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng vào thời điểm gãy xương. Đó có thể là các phần quan trọng như dây chằng, da, cơ, dây thần kinh, mạch máu… Do vậy, bác sĩ sẽ kiểm tra và đánh giá mọi dấu hiệu tổn thương mô mềm. Điều này ảnh hưởng nhiều tới kế hoạch xử lý phần gãy xương.

Gãy đầu dưới xương chày (Gãy pilon)

Gãy đầu dưới xương chày là một chấn thương nghiêm trọng với đường gãy đi vào diện khớp cổ chân. Loại gãy này thường xảy ra sau khi chân chịu lực va đập mạnh. Ví dụ như rơi từ độ cao xuống hoặc tai nạn giao thông.

Gãy đầu dưới xương chày thường gây sưng đau kèm theo sưng tấy lớn, đau đớn rõ rệt, gây sưng cổ chân và biến dạng cấu trúc cổ chân. Một số trường hợp gãy Pilon kèm theo các mảnh xương vỡ chồi qua da (gãy xương hở) thì cần điều trị nhanh chóng bằng phẫu thuật để giảm nguy cơ nhiễm trùng.

Nguyên nhân

Những nguyên nhân thường gặp nhất gây gãy xương chày là:

Do té ngã từ độ cao lớn hoặc rơi xuống bề mặt cứng. Thường xảy ra với người già, người đi không vững và các vận động viên.

Thực hiện các chuyển động xoắn như xoay vòng. Thường xảy ra do các môn thể thao như trượt băng, trượt tuyết, đối kháng.

Do va chạm mạnh. Nguyên nhân do tai nạn xe máy, ô tô có thể dẫn đến chấn thương gãy xương chày nghiêm trọng nhất.

Tình trạng sức khỏe ở người bệnh cũng có thể ảnh hưởng đến gãy xương chày. Ví dụ như bệnh tiểu đường tuýp 2 và bệnh lý về xương có từ trước như viêm xương khớp.

Dấu hiệu gãy xương chày

Các triệu chứng điển hình như:

Cảm giác đau dữ dội ở phần dưới cẳng chân.

Tê hoặc ngứa ran ở chân.

Bên chân bị thương không có khả năng chịu lực.

Bị biến dạng vùng bị thương (cẳng chân, , mắt cá chân, ống chân…).

Sưng tấy, bầm tím ở xung quanh vùng bị chấn thương.

Thấy xương chồi ra khỏi chỗ rách da (gãy xương hở).

Các vận động uốn cong và xung quanh đầu gối bị hạn chế.

Hạn chế các vận động uốn cong và xung quanh đầu gối.

Nếu nó bị đứt gãy thì xương mác cũng thường bị ảnh hưởng.

Các biện pháp chẩn đoán

Để chẩn đoán gãy xương chày, bác sĩ sẽ hỏi về tình trạng sức khỏe đồng thời quan sát các dấu hiệu điển hình như:

Thực hiện xét nghiệm X quang, chụp CT để xác nhận chẩn đoán gãy xương. Các xét nghiệm hình ảnh còn giúp khảo sát khớp gối, khớp mắt cá chân có bị ảnh hưởng bởi gãy xương chày hay không.

Các biện pháp điều trị

Trên thực tế, thời gian phục hồi gãy xương chày tùy thuộc vào mức độ gãy xương. Bộ phận này rất lâu lành, có thể cần từ 4 đến 6 tháng. Để điều trị gãy xương chày, có thể bác sĩ sẽ cân nhắc phương pháp điều trị nội khoa bao gồm:

Trong một số trường hợp điều trị nội khoa không có tác dụng hoặc chấn thương quá phức tạp như gãy xương hở, gãy vụn hoặc xương chân yếu… bác sĩ có thể đề xuất bệnh nhân thực hiện phẫu thuật. Các kỹ thuật sau có thể được sử dụng để điều trị gãy xương chày:

Sống chung với thương tổn

Giai đoạn hồi phục bắt đầu ngay sau khi điều trị phẫu thuật hay không phẫu thuật. Trong giai đoạn này, bệnh nhân phải tuân theo những lời khuyên của bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình. Đây là điều đặc biệt quan trọng vì bệnh nhân cần phải hiểu rõ các hướng dẫn của bác sĩ phẫu thuật về việc chịu lực, vận động khớp gối và sử dụng những thiết bị cố định ngoài (băng bột hay nẹp cố định). Bác sĩ cũng sẽ trao đổi về những tác động có thể có trong sinh hoạt hằng ngày, cuộc sống, công việc, trách nhiệm với gia đình và các hoạt động giải trí.

Xương chày là xương lớn vùng cẳng chân chịu lực chủ yếu của cơ thể. Do áp lực lớn và gần sát da nên bộ phận này thường hay gặp chấn thương. Hiểu biết về cấu tạo, chức năng giúp chúng ta chủ động trong việc phòng chống và điều trị tổn thương xương chày cũng như khớp gối và cổ chân.

Cấu Tạo Và Chức Năng Tuyến Giáp

Hệ thống các tuyến nội tiết trong cơ thể bao gồm: tuyến yên, tuyến giáp trạng, tuyến

cận giáp trạng, tuyến tuỵ, tuyến thượng thận, tuyến sinh sản, tuyến ức, tuyến tùng. Những

nghiên cứu gần đây còn cho thấy các mô nội tiết cư trú ở các cơ quan cũng có chức năng

nội tiết như dạ dày mô nội tiết tiết gastrin, lớp nội mạc tử cung có mô nội tiết sản xuất ra

Tuyến giáp trạng (gọi tắt là tuyến giáp) nằm ở hai bên đầu trước khí quản vòng sụn 1 – 3 xếp thành đôi, giữa có eo nhỏ.

Về cấu tạo tuyến giáp chia làm nhiều thuỳ nhỏ do vô số bào tuyến hợp thành. Mỗi một bào tuyến được xem như là một đơn vị tiết. Trong xoang bao tuyến có chứa chất keo do tế bào tuyến (một lớp tế bào biểu bì bao quanh bao tuyến) tiết ra. Bình thường chất keo bắt màu toan tính. Song mỗi loại động vật có độ toan kiềm khác nhau. Trong dịch keo có phức chất iodine chứa men phân giải protein.

Tuyến giáp được cung cấp máu nhiều nhất trong các tuyến. Theo Tchouevski thì toàn bộ lượng máu ở chó mỗi ngày qua tuyến giáp 16 lần, ở người 25 lần. Mỗi tế bào tuyến giáp đều có sợi thần kinh liên hệ trực tiếp với hệ thần kinh trung ương. Những sợi thân kinh này bắt nguồn khác nhau, từ các nhánh thần kinh giao cảm, thần kinh dưới lưỡi, thần kinh lưỡi hầu, thần kinh mê tẩu.

Tuyến giáp tiết hai hormon: Thyroxine và Thyrocalcitonine

– Sinh tổng hợp Thyroxine

Iodine vô cơ từ ống tiêu hoá đến gan rồi đến tuyến giáp. Dùng iodine 131 phóng xạ, chứng minh thấy khả năng đồng hoá iodine của tuyến giáp rất mạnh (gấp trên 80 lần so với các mô khác). Sau khi vào bao tuyến iodine vô cơ được chuyển thành iodine hữu cơ bằng một phản ứng oxygen hoá nhờ men peroxidase hoạt hoá. Hormon TSH (thyroid- stimulating – hormon) của thuỳ trước tuyến yên đã can thiệp vào ngay thời kì đầu đồng hoá và hữu cơ hoá iodine này của tuyến giáp. Iodine hữu cơ được gắn rất nhanh lên các phần tử thyroxine tạo thành thyrozine chứa 1 iodine và thyrozine chứa 2 iodine (viết tắt là T1, T2). Sau đó có sự ngưng tụ một phần hai phân tử T1 và T2 cho ra thyrozine chứa 3 iodine (gọi là T3), tri-iodo-thyroxine. Còn đại bộ phận là sự ngưng tụ 2 phân tử thyrozine chứa 2 iodine, làm thành T4 tức là thyroxine.Thyroxine sau khi được tổng hợp liền kết hợp với tiểu phân protein tạo thành phức chất thyro-globulin dự trữ trong xoang bao tuyến. Khi cơ thể cần thì dưới tác dụng của enzyme phân giải protein, được hoạt hoá bởi TSH, thyroxine được giải phóng vào máu để gây tác dụng. Hàm lượng thyroxine trong tuyến giáp gấp 100 lần trong huyết tương. Trong tuyến giáp có 98% iodine tồn tại trong phức chất thyroglobulin.

Sự tổng hợp này bắt đầu từ việc iodine hoá một số gốc Tyrosine (Tyr) ở protêin được gọi là thyroglobulin (phân tử lượng 650.000 Dalton). Sau đó nhờ một số enzyme protease các T3 và T4 sẽ giải phóng thành các hormon T3 và T4.

– Tác dụng sinh lý của Thyroxine

Ở những động vật cắt bỏ tuyến giáp hoặc bị nhược năng tuyến giáp thấy triệu chứng đầu tiên xuất hiện là giảm thân nhiệt, trao đổi cơ sở giảm 30 – 40%. Người ta cho rằng 40% nhiệt lượng cơ thể được sinh ra dưới ảnh hưởng của thyroxine. Do thân nhiệt giảm làm cơ thể suy yếu, dễ mỏi mệt khi hoạt động dù hoạt động nhẹ, sức chống rét và đề kháng bệnh tật kém.Tiêm thyroxine sẽ tăng tiêu thụ O 2 và tăng đào thải CO 2. Đó là nguyên tắc đo trao đổi cơ sở để thăm dò chức năng của tuyến này.

Kích thích sinh trưởng, phát dục

Đối với cơ thể non đang lớn, thyroxine có tác dụng kích thích sự sinh trưởng phát dục của cơ thể, nó thúc đẩy phát triển tổ chức, biệt hoá tế bào, đẩy nhanh sự biến thái từ nòng nọc thành ếch nhái. Xúc tiến sự phát triển bào thai. Nhưng thyroxine không làm cho cơ thể phát triển vô hạn độ. Cắt tuyến giáp làm động vật non ngừng sinh trưởng, xương bị cốt hoá sớm và trở thành động vật tí hon. Nhưng ưu năng tuyến giáp không làm cho con vật lớn khổng lồ.

Hệ thần kinh được phát triển hoàn thiện hay không, phần lớn chịu ảnh hưởng chi phối của tuyến giáp. Động vật bị cắt bỏ tuyến giáp, hoạt động của lớp vỏ đại não giảm sút, phản xạ kém. Thí nghiệm chứng minh rằng chó bị cắt bỏ tuyến giáp không thể thành lập được phản xạ có điều kiện. Cừu cắt bỏ tuyến giáp, tuy vẫn duy trì được phản xạ sống theo đàn nhưng chậm chạp.

Nhược năng và ưu năng tuyến giáp

Nguyên nhân do trong thức ăn, nước uống thiếu iodine. Biểu hiện điển hình đó là chứng phù niêm dịch, trao đổi cơ sở giảm, thân nhiệt hạ, tim đập chậm, đần độn kém linh hoạt các loại phản xạ đều yếu và kéo dài. Ở người xuất hiện bứu cổ (địa phương) hay bị run tay chân do thiếu nhiệt lượng, sợ rét, khả năng rụng trứng và thụ tinh kém sút; ở con vật có khi mất cả động dục. Bệnh bứu cổ ở người còn mang tính chất địa phương, thường xuất hiện ở những vùng rẻo cao do trong thức ăn, nước uống thiếu iodine.

Do tuyến giáp hoạt động quá mức, trao đổi cơ sơ tăng có khi gấp đôi, dẫn đến làm thân nhiệt tăng, tim đập nhanh. Ở người xuất hiện bứu cổ, lồi mắt, thể trọng giảm, hay hồi hộp xúc động, hay cáu gắt. Ở thỏ, mèo, gà bị mắc bệnh này, có hiện tượng rụng lông, sắc tố lông kém. Ưu năng tuyến giáp có khi xuất hiện do sinh lý, vào thời kỳ chửa hoặc do động vật, người sống ở vùng quá lạnh.

Năm 1963, Hissch và Munson chiết xuất được từ tuyến giáp chuột một hormon thứ hai có tác dụng hạ can xi huyết, được đặt tên là calcitonin. Đến năm 1967 thì chiết xuất được hormon này ở dạng tinh khiết và biết được cấu trúc của nó là một mạch peptid dài có trọng lượng phân tử 8.700 đơn vị oxygen.Tác dụng hạ can xi huyết phát huy ngay 20 phút sau khi tiêm cho động vật thí nghiệm và kéo dài đến 60 phút. Cơ chế của nó là tăng sự lắng đọng can xi từ máu vào xương, cũng có tác giả cho là nó làm tăng đào thải Ca theo nước tiểu. Tuy vậy ý kiến thứ nhất đúng hơn vì khi thí nghiệm ngâm xương ống chuột lang vào một dung dịch có chứa can xi, rồi giỏ calcitonin vào sau một thời gian thấy ống xương to ra và hàm lượng can xi trong dung dịch giảm xuống.

c. Điều hoà hoạt động tuyến giáp

Tuyến giáp được phát triển và hoạt động dưới ảnh hưởng của hormon TRF (thyroid – releasing hormon) tiết ra từ vùng dưới đồi, thông qua hormon TSH (thyroid – stimulating hormon) của thuỳ trước tuyến yên. Yếu tố xúc tác cho sự điều hoà này là nồng độ thyroxine trong máu. Khi thyroxine máu giảm sẽ tạo một liên hệ ngược dương tính làm tăng tiết TPF và TSH, kết quả làm tăng hoạt động tuyến giáp, tăng tiết thyroxine. Ngược lại khi thyroxine trong máu tăng thì nó liên hệ ngược âm tính ức chế bài tiết TRF, TSH, hoạt động tuyến giáp giảm, giảm bài tiết thyroxine. Hoạt động của vỏ não qua vùng dưới đồi, tuyến yên cũng ảnh hưởng đến tuyến giáp. Động vật luôn bị kích động, sợ hãi, lo âu hoặc ở xứ quá lạnh, tác động vào vỏ não xuống gây ưu năng tuyến giáp. Động vật thuộc loại hình thân kinh chậm chạp, cù lì, tuyến giáp cũng kém phát triển.