Ví Dụ Về Lợi Ích Của Thương Mại Quốc Tế / Top 11 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Nhatngukohi.edu.vn

Thương Mại Quốc Tế Và Lợi Ích Của Thương Mại Quốc Tế

Thực tiễn hoạt động buôn bán giữa các nước trên thế giới hiện nay đã cho thấy xu hướng tự do hóa thương mại toàn cầu và vai trò của thương mại quốc tế ngày càng quan trọng đối với sự tăng trưởng trong nền kinh tế của những nước tham gia.

Thương mại quốc tế đã trở thành một lĩnh vực quan trọng tạo điều kiện cho các nước tham gia vào sự phân công lao động cũng như mở rông thị trường trên thế giới và phát triển kinh tế nội địa của những nước tham gia vào thương mại quốc tế.

Thương mại quốc tế ngày nay không chỉ mang lại không mang ý nghĩa đơn thuần là buôn bán mà nó thể hiện được yếu tố các quốc gia phân bố lao động, công việc, công nghệ… trên quốc tế. Thương mại quốc tế được coi là một tiền đề một nhân tố phát triển kinh tế nội địa của các nước tham gia và tối ưu hóa sản phẩm cạnh tranh trên quốc tế và phát triển công nghệ của những công ty tham gia thương mại quốc tế mang tính chuyên nghiệp và chuyên môn hóa cao.

Định nghĩa:Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hóa, dịch vụ, công nghệ, công việc, lao động… giữa các nước thông qua buôn bán, hợp tác, chuyển giao công nghệ… nhằm giảm chi phí đầu tư kinh doanh và tăng lợi nhuận kinh doanh.

Các lợi ích:

Thương mại quốc tế được coi là một quá trình kinh tế và được coi là một ngành kinh tế. Với một ngành của quá trình phát triển kinh tế được hiểu là một quá trình kinh tế thương mại được thực hiện từ vĩ mô tới vi mô tới các khâu điều tra thị trường và phát triển thị trường thương mại quốc tế, phân phối lưu thông hàng hóa, tiêu dùng, văn hóa đặc trưng của vùng địa lý… được diễn ra với quy mô lớn và tốc độ nhanh hơn. Ngành kinh tế thương mại quốc tế là một lĩnh vực chuyên môn hóa cao, có tổ chức, có phân công, hợp tác chuyển giao công nghệ, lao động, cơ sở hạ tầng, vốn đầu tư, tổ chức sản xuất hàng hóa…

Thương mại quốc tế có ý nghĩa lợi ích đối với các nước tham gia vì các quốc gia tham gia được phân phối và phát triển thị trường rộng bán hàng và sản xuất với số lượng lớn hơn, phát triển nhiều mặt hàng phong phú hơn chất lượng hơn với sự so sánh sản phẩm của người tiêu dùng với sự cạnh tranh tăng cao trên thị trương quốc tế.

Thương mại quốc tế thúc đấy các nước tham gia nỗ lực phát triển hàng hóa và công nghệ nhằm tăng tỷ lệ canh tranh và nâng cao chất lượng sản phẩm để tồn tại trên thị trường quốc tế, nó có tác động trực tiếp tới nhà sản xuất ở các nước tham gia vào thị trường thương mại quốc tế, từ đó các doanh nghiệp phát huy được thế mạnh những tiềm năng của thị trường và tiềm năng của đất nước mà doanh nghiệp đang kinh doanh.

Các doanh nghiệp tham gia được giao lưu trao đổi nhân công, khoa học kỹ thuật thông qua hợp tác lao động và chuyển giao công nghệ làm tăng quá trình phát triển công nghệ và trình độ lao động của nhân công… Bên cạnh đó thương mại quốc tế thúc đẩy quá trình liên kết nên kinh tế giữa các quốc gia tham gia thị trường ngày càng chặt chẽ và mở rộng hơn, điều đó giúp ổn định tình hình nền kinh tế – chính trị của những quốc gia tham gia thương mại quốc tế.

Thương mại quốc tế làm tăng mức sống của người dân, tạo ra nhiều việc làm và làm tăng hiệu suất trong nền kinh tế, góp phần làm ổn định an ninh kinh tế, ngoài ra thương mại quốc tế góp phần làm tăng những nguồn vốn đầu tư, mở rộng các mối quan hệ quốc tế.

Lợi Ích Từ Thương Mại Quốc Tế

Thương mại quốc tế là một trong những hình thức chủ yếu của hoạt động kinh doanh quốc tế. Đó là hoạt động mua bán, hoặc trao đổi hàng hóa và dịch vụ vượt ra khỏi biên giới các quốc gia. Trong những thập kỷ vừa qua, khi xu hướng toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ, thương mại quốc tế đóng vai trò ngày càng tăng đối với hầu hết các nền kinh tế trên thế giới. Thương mại quốc tế mở ra cơ hội cho tất cả các doanh nghiệp và người tiêu dùng trên toàn thế giới. Nhờ có thương mại quốc tế mà các doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất, đáp ứng không chỉ cho thị trường nội địa mà cho cả thị trường nước ngoài. Thương mại quốc tế mang lại cho người tiêu dùng tại các nước sự lựa chọn đa dạng hơn về hàng hóa và dịch vụ. Chẳng hạn, do có khí hậu lạnh nên Phần Lan không trồng được bông. Tuy nhiên, Phần Lan vẫn có thể bán giấy và các sản phẩm khác từ gỗ (là mặt hàng sẵn có tại Phần Lan) sang Hoa Kỳ và dùng số tiền mua được để mua bông từ nước này. Do vậy mà người dân Phần Lan vẫn có bông để sử dụng. Tuy Hoa Kỳ là nước giàu tài nguyên rừng nhưng những sản phẩm gỗ của Phần Lan có thể thích hợp với người tiêu dùng Hoa Kỳ về mặt giá cả, hoặc có thể giải quyết sự thiếu hụt trên thị trường Hoa Kỳ. Việc nhập khẩu những mặt hàng này từ Phần Lan còn giúp cho các công nhân Hoa Kỳ có thể chuyển sang làm việc ở những ngành khác với mức lương cao hơn. Hay trường hợp Ecuador xuất khẩu hoa hồng sang Hoa Kỳ vì có lợi thế về điều kiện khí hậu và chi phí nhân công rẻ hơn nhiều so với việc trồng loại hoa này tại Hoa Kỳ (tại bang Florida). Còn Hoa Kỳ lại có lợi thế hơn Ecuador về sản xuất và xuất khẩu máy vi tính. Thương mại tự do cũng mang lại lợi ích cho những người xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ vào Ecuador. Khi mà nền kinh tế của Ecuador ngày càng mạnh lên nhờ xuất khẩu được hoa hồng, người dân nước này có thể mua được nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn. Các nhà kinh tế lập luận rằng về dài hạn tự do thương mại sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống của người dân khắp nơi trên thế giới.

Những lập luận kinh tế xung quanh những lợi ích và chi phí của tự do hóa thương mại về hàng hóa và dịch vụ không phải là những lập luận mang tính hàn lâm trừu tượng. Lý thuyết về thương mại quốc tế đã định hình nên chính sách kinh tế của nhiều quốc gia trong vòng 50 năm qua. Đó chính là động lực đằng sau việc hình thành Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và các tổ chức thương mại khu vực ví dụ như Liên minh Châu Âu (EU) và Hiệp định thương mại tự do Bắc Hoa Kỳ (NAFTA). Đặc biệt, thập kỷ 90 của thế kỷ trước chứng kiến toàn thế giới vận động mạnh mẽ về hướng tự do hóa nhiều hơn. Do đó, điều quan trọng là chúng ta phải hiểu được những lý thuyết thương mại đó là gì và tại sao chúng lại thành công trong việc định hình chính sách kinh tế của nhiều nước trên thế giới cũng như hiểu được môi trường trong đó các doanh nghiệp quốc tế cạnh tranh gay gắt với nhau.

10 Lợi Ích Của Hệ Thống Thương Mại Wto Đại Cương Môn Kinh Tế Học Quốc Tế

10 lợi ích của hệ thống thương mại WTO Đại cương môn Kinh tế học quốc tế

1. Hệ thống này giúp gìn giữ hoà bình

Hòa bình phần nào là một thành quả của hai nguyên tắc cơ bản nhất của hệ thống thương mại: giúp thương mại được thuận buồm xuôi gió và đưa đến cho các nước một lối thoát bình đẳng và mang tính xây dựng để giải quyết những bất đồng về các vấn đề thương mại. Đó cũng là một kết quả của sự hợp tác và lòng tin quốc tế do hệ thống này tạo ra và duy trì.

Lịch sử bị vấy bẩn bởi những tranh chấp thương mại dẫn đến chiến tranh. Một trong những ví dụ sống động nhất là cuộc chiến tranh thương mại những năm 1930, khi các nước cạnh tranh với nhau nhằm tăng thêm các hàng rào mậu dịch để bảo vệ các nhà sản xuất trong nước và để trả đũa rào cản của các nước khác. Điều này càng làm cho cuộc đại suy thoái thêm tồi tệ và cuối cùng góp phần làm bùng nổ Chiến tranh Thế giới thứ 2.

Hai bước phát triển ngay Chiến tranh Thế giới thứ 2 đã giúp tránh được nguy cơ những căng thẳng thương mại thời kỳ trước chiến tranh xuất hiện trở lại. Thứ nhất, ở châu Âu, hợp tác quốc tế phát triển trong các ngành công nghiệp than, sắt và thép. Thứ hai, trên phạm vi toàn cầu, Hiệp định chung về thương mại và thuế quan (GATT) đã hình thành.

Cả 2 bước phát triển trên đều tỏ ra thành công, thành công đến mức hiện nay chúng được mở rộng rất mạnh – một trở thành Liên minh châu Âu và một trở thành Tổ chức Thương mại Thế giới.

Hệ thống GATT/WTO là một chủ thể kiến tạo niềm tin quan trọng. Các cuộc chiến tranh thương mại những năm 1930 là bằng chứng cho thấy rằng chủ nghĩa bảo hộ có thể dễ dàng đẩy các nước vào một tình thế trong đó không có kể thắng mà chỉ toàn người thua. Quan điểm bảo hộ thiển cận cho rằng việc bảo vệ một số khu vực nhất định chống lại hàng nhập khẩu là rất có lợi. Những quan điểm này lại lờ đi chuyện các nước khác sẽ phản ứng như thế nào. Thực tế dài hạn hơn cho thấy rằng một bước bảo hộ của một quốc gia có thể dễ dàng dẫn đến hành động trả đũa từ các quốc gia khác, dẫn đến mất mát niềm tin vào thương mại từ do hơn và làm cho tất cả, bao gồm cả các khu vực được bảo hộ ngay từ đầu – sa lầy vào rắc rối kinh tế nghiêm trọng.

Niềm tin là chìa khoá giúp tránh được viễn cảnh không có kẻ thắng ấy. Khi các chính phủ đều tin tưởng rằng các nước khác sẽ không tăng cường các hàng rào mậu dịch thì chính họ cũng sẽ không có ý định làm như vậy. Hệ thống thương mại WTO đóng vai trò sống còn trong việc tạo ra và củng cố niềm tin đó. Đặc biệt quan trọng là những cuộc thương lượng đưa đến những thoả thuận trên cơ sở nhất trí ý kiến và tập trung vào việc tuân thủ các nguyên tắc.

2. Giải quyết các mâu thuẫn thương mại một cách xây dựng

Do thương mại tăng lên về khối lượng, số lượng sản phẩm được trao đổi, và số lượng các nước và công ty tham gia thương mại, nên có thêm nhiều cơ hội để những tranh chấp thương mại nảy sinh. Hệ thống WTO giúp giải quyết các tranh chấp này một cách hoà bình và mang tính xây dựng.

Nếu để mặc chúng thì những tranh chấp này có thể dẫn đến những xung đột nghiêm trọng. Một trong những nguyên tắc của WTO là các thành viên có nghĩa vụ phải đưa những tranh chấp của mình tới WTO và không được đơn phương giải quyết. Khi họ đưa ra các tranh chấp ra giải quyết tại WTO, thủ tục giải quyết của WTO là tập trung chú ý của họ vào các nguyên tắc. Một khi nguyên tắc được thiết lập, các nước phải chú trọng nỗ lực tuân thủ nguyên tắc, và có lẽ sau đó tái thương lượng về các nguyên tắc – chứ không phải là tuyên chiến với nhau. Gần 200 tranh chấp đã được đưa ra giải quyết ở WTO kể từ khi tổ chức này thành lập. Nếu thiếu một phương tiện giải quyết các tranh chấp này một cách xây dựng và đồng bộ, một số tranh chấp đã có thể dẫn đến những cuộc xung đột chính trị nghiêm trọng hơn.

3. Một hệ thống dựa trên những nguyên tắc chứ không phải là sức mạnh để làm cho cuộc sống dễ dàng hơn với tất cả mọi người

WTO không thể tuyên bố sẽ làm cho tất cả các nước đều bình đẳng. Nhưng WTO thực sự làm giảm bớt một số bất bình đẳng, giúp các nước nhỏ hơn có nhiều tiếng nói hơn. Đồng thời cũng giải thoát cho các nước lớn khỏi sự phức tạp trong việc thoả thuận các hiệp định thương mại với các đối tác của mình.

Các quyết định và hiệp định của WTO được thực hiện bằng nhất trí ý kiến. Các hiệp định này áp dụng cho mọi người. Các nước giàu cũng như nước nghèo đều có thể bị chất vấn nếu họ vi phạm một hiệp ước, và họ có quyền chất vấn các nước khác trong quy trình giải quyết tranh chấp của WTO. Thiếu một cơ chế đa phương kiểu hệ thống WTO, các nước mạnh hơn sẽ càng được tự do đơn phương áp đặt ý muốn của mình cho các nước yếu hơn. Các nước lớn hơn cũng được hưởng những lợi ích tương xứng. Các cường quốc kinh tế có thể sử dụng diễn đàn duy nhất của WTO để thương lượng với tất cả hay với hầu hết các đối tác thương mại của họ cùng một lúc.

Trên thực tế, có riêng một hệ thống nguyên tắc áp dụng với tất cả các nước thành viên, điều đó đã đơn giản hoá rất nhiều toàn bộ cơ chế thương mại.

4. Thương mại tự do hơn giúp giảm chi phí cuộc sống

Hệ thống toàn cầu WTO đã giảm bớt các hàng rào mậu dịch thông qua thương lượng và áp dụng nguyên tắc không phân biệt đối xử. Kết quả là chi phí sản xuất giảm, giá hàng hoá thành phẩm và dịch vụ giảm và cuối cùng là chi phí cuộc sống thấp hơn.

Cho đến nay, các hàng rào mậu dịch đã giảm đi rất nhiều so với trước đây. Các hàng rào này còn tiếp tục được giảm và tất cả chúng ta đều có lợi.

5. Đem đến cho người tiêu dùng nhiều lựa chọn hơn, và phạm vi chất lượng rộng hơn để lựa chọn

Hiện nay chúng ta có thể có được tất cả các hàng hoá bởi chúng ta có thể nhập khẩu chúng. Nhập khẩu cho phép chúng ta có nhiều lựa chọn hơn – cả hàng hoá và dịch vụ lẫn phạm vi chất lượng. Thậm chí chất lượng của hàng sản xuất nội địa có thể nâng lên do chính sự cạnh tranh từ hàng nhập khẩu. Nhiều lựa chọn hơn không đơn giản là vấn đề người tiêu dùng mua hàng thành phẩm của nước ngoài. Hàng nhập khẩu còn được sử dụng làm nguyên liệu, linh kiện và thiết bị cho sản xuất trong nước.

Điều này mở rộng phạm vi của các thành phẩm và dịch vụ do các nhà sản xuất trong nước làm và nó làm tăng phạm vi những công nghệ mà họ có thể sử dụng. Chẳng hạn, khi thiết bị điện thoại di động trở nên phổ biến, các dịch vụ phát triển mạnh, thậm chí ngay tại nước không hề sản xuất thiết bị. Đôi khi, sự thành công của một sản phẩm hay dịch vụ nhập khẩu tại thị trường trong nước cũng có thể khuyến khích các nhà sản xuất trong nước cạnh tranh, làm gia tăng lựa chọn nhãn hàng hoá sẵn có cho người tiêu dùng cũng như tăng phạm vi hàng hoá và dịch vụ sản xuất trong nước. Nếu thương mại cho hép chung ta nhập khẩu nhiều hơn, nó cũng cho hép những người khác mua nhiều hàng sản xấut của chúng ta hơn. Nó làm tăng thu nhập của chúng ta, cung cấp cho cũng ta những phương tiện dể hưởng sự lựa chọn gia tăng đó.

6. Thương mại làm tăng thu nhập

Giảm bớt hàng rào thương mại cho phép thương mại tăng trưởng, điều này làm tăng thu nhập – cả thu nhập quốc dân và thu nhập cá nhân.

Dự tính của WTO về tác động của các thoả thuận thương mại tại vòng đàm phán Uruguay 1994 là thu nhập của thế giới có thêm từ 109 tỷ USD đến 510 tỷ USD.

Thương mại cũng làm nảy sinh những thách thức khi các nhà sản xuất trong nước phải đối mặt với sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu. Nhưng thực tế rằng có nguồn thu nhập bổ sung có nghĩa là sẵn có nhiều nguồn lực để các chính phủ tái phân phối lợi nhuận từ những người được lợi nhiều nhất, chẳng hạn để giúp các công ty và công nhân thích ứng bằng cách trở nên năng suất và có khả năng cạnh tranh hơn trong lĩnh vực mà họ đã và đang làm, hoặc bằng cách chuyển sang các hoạt động mới.

7. Thương mại kích thích tăng trưởng kinh tế và đó có thể là tin tốt lành cho vấn đề việc làm

Trên thực tế đã có bằng chứng căn cứ trên sự việc cho thấy rằng việc giảm các rào cản thương mại là điều kiện tốt cho công ăn việc làm. Nhưng bức tranh này rất phức tạp do nhiều yếu tố. Tuy nhiên, bảo hộ cũng không phải là cách để giải quyết các vấn đề việc làm.

Có ít nhất hai luận điểm được chỉ ra về vấn đề này. Thứ nhất, sẽ có những nhân tố khác xuất hiện. Chẳng hạn, tiến bộ công nghệ cũng có tác động mạnh đến việc làm và năng suất lao động, làm lợi cho một số loại công việc song lại làm tổn thương một số khác. Thứ hai, trong khi thương mại rõ ràng là làm tăng thu nhập quốc dân (và sự thịnh vượng), điều này không phải luôn đựơc hiểu là tạo ra công ăn việc làm mới cho những người bị mất việc do sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu.

Có nhiều tình huống cho thấy rằng cơ hội đã được nắm bắt – đó là những trường hợp thương mại tự do hơn có lợi cho việc làm. Uỷ ban EU tính toán rằng việc thiết lập thị trường duy nhất của nó có nghĩa là có thêm khoảng từ 300.000 đến 900.000 việc làm nữa so với lúc không có thị trường duy nhất. Thực tế cũng cho thấy, chế độ bảo hộ đã làm hại công ăn việc làm như thế nào. Ví dụ điển hình là ngành công nghiệp xe hơi của Mỹ. Các hàng rào mậu dịch được thiết lập để bảo vệ việc làm ở nước này bằng cách hạn chế nhập khẩu từ Nhật Bản lại dẫn đến việc làm cho xe hơi ở Mỹ đắt thêm, lượng xe hơi vì thế được bán ít đi và việc làm giảm.

8. Các nguyên tắc cơ bản làm cho hệ thống có hiệu quả hơn, và giảm bớt chi phí

Thương mại cho phép thực hiện phân công lao động giữa các nước. Nó cho phép sử dụng một cách phù hợp và hiệu quả các nguồn lực vào sản xuất. Nhưng hệ thống thương mại WTO còn đem lại nhiều hơn như thế. Nó giúp làm tăn hiệu quả và thậm chí còn giảm bớt chi phí nhiều hơn bởi những nguyên tắc quan trọng được thiết lập trong hệ thống.

Không phân biệt đối xử chỉ là một trong những nguyên tắc của hệ thống thương mại WTO. Những nguyên tắc khác gồm có:

* Minh bạch. Thông tin rõ rằng về các chính sách, nguyên tắc và quy định.

* Tin chắc vào các điều kiện thương mại. Những cam kết cắt giảm các hàng rào thương mại và làm tăng khả năng tiếp cận các thị trường của một số nước cho các nước khác có sự ràng buộc pháp lý.

* Đơn giản hoá và chuẩn hoá các thủ tục hải quan, xoá bỏ tình trạng quan liêu, tập trung hoá cơ sở dữ liệu thông tin và các biện pháp khác được thiết lập nhằm đơn giản hoá thương mại theo phương châm “kích thích thương mại”.

Tất cả những nguyên tắc này làm cho thương mại đơn giản hơn, giảm bớt phí tổn cho các công ty, tăng niềm tin vào tương lai. Đổi lại, điều đó cũng có nghĩa là có nhiều việc làm hơn, người tiêu dùng có hàng hoá và dịch vụ tốt hơn.

9. Hệ thống này bảo vệ các chính phủ khỏi những quyền lợi hẹp hòi

Hệ thống GATT/WTO phát triển trong nửa cuối của thế kỷ XX giúp cho các chính phủ có một nhãn quan cân bằng hơn về chính sách thương mại. Các chính phủ vững vàng hơn trong việc tự bảo vệ mình tránh khỏi những vận động ngoài hành lang của những nhóm có quyền lợi hẹp hòi bằng việc tập trung vào những cân đối vì lợi ích của tất cả mọi người trong nền kinh tế.

Một trong những bài học nổi bật của chủ nghĩa bảo hộ nổi bật trong những thập kỷ đầu thế kỷ XX là có thể gây ra thiệt hại nếu những quyền lợi cục bọ hẹp hòi chiếm ưu thế về ảnh hưởng chính trị. Kết quả là một chính sách ngày càng hạn chế mà đã dẫn đến một cuộc chiến tranh thương mại không có ai thắng chỉ toàn kẻ bại. Các chính phủ phải được vũ trang để chống lại sức ép của những nhóm quyền lợi hẹp hòi, và hệ thống thương mại WTO có thể giúp được điều này.

Hệ thống GATT/WTO bao trùm một phạm vi rất rộng. Vì vậy, nếu trong một cuộc thương lượng thương mại GATT/WTO có một nhóm áp lực vận động chính phủ của mình phải coi nhóm là một trường hợp đặc biệt cần được bảo hộ thì chính phủ có thể chống lại sức ép bảo hộ bằng cách lập luận rằng chính phủ cần phải có một thoả thuận trên phạm vi rộng để bảo đảm rằng mọi khu vực trong nền kinh tế đều có lợi.

10. Hệ thống khuyến khích chính phủ hoạt động tốt

Theo các nguyên tắc của WTO, khi đã có cam kết tự do hoá một khu vực thương mại nào đó, thì khó có thể đảo ngược được. Các nguyên tắc cũng không khuyến khích những chính sách thiếu thận trọng. Đối với giới kinh doanh, điều này có nghĩa là độ chắc chắn cao hơn và rõ ràng hơn về các điều kiện thương mại. Đối với các chính phủ, điều này thường đồng nghĩa với kỷ luật tốt.

Các cam kết bao gồm những cam kết không sa vào những chính sách thiếu thận trọng. Chủ nghĩa bảo hộ nhìn chung không phải là một giải pháp khôn ngoan bởi những thiệt hại do nó gây ra trong nước và trên trường quốc tế.

Một hình thức hàng rào thương mại đặc biệt gây thêm thiệt hại vì chúng tạo cơ hội cho tham nhũng và những mô hình chính phủ xấu xa khác.

Mộ loại rào cản thương mại mà các nguyên tắc của WTO cố gắng giải quyết là hạn ngạch. Do hạn ngạch hạn chế cung nên đẩy giá cả tăng lên một cách giả tạo, đồng thời tạo ra một số lợi nhuận lớn khác thường. Các nhà kinh tế gọi đó là “thuế hạn ngạch”. Lợi nhuận này có thể được dùng để gây ảnh hưởng đối với các chính sách, vì cũng có nhiều tiền hơn để thực hiện các cuộc vận động ngoài hành lang. Nói cách khác, hạn ngạch là một biện pháp hạn chế thương mại đặc biệt tồi tê. Thông qua các nguyên tắc của WTO các chính phủ đã nhất trí rằng họ không khuyến khích sử dụng hạn ngạch.

Tuy nhiên, nhiều loại hạn ngạch khác nhau vẫn được áp dụng ở hầu hết các nước, và nhiều chính phủ lập luận rằng hạn ngạch rất cần thiết. Song họ bị các hiệp định của WTO ràng buộc và có nhữn cam kết giảm bớt hay loại bỏ nhiều loại hạn ngạch, đặc biệt là đối với ngành dệt.

Nhiều lĩnh vực khác của các hiệp định WTO cũng có thể giúp giảm bớt tệ tham nhũng và chính phủ xấu xa. Sự minh bạch, các tiêu chí rõ ràng hơn về các quy định đối với sự an toàn và chuẩn mực của sản phẩm, và sự không phân biệt đối xử cũng giúp giảm bớt tình trạng gian dối và việc ra quyết định mang tính độc đoán.

Thực sự các chính phủ đã dùng WTO như là một sức ép bên ngoài đáng được hoan nghênh đối với các chính sách của họ.

Thương Mại Quốc Tế Và Ảnh Hưởng Của Nó Đến Nền Kinh Tế Thế Giới

Tiểu luận quan hệ kinh tế quốc tế LỜI MỞ ĐẦU Bước sang thế kỷ 21, là thế kỷ của toàn cầu hóa tự do hóa thương mại,các nước trên thế giới đều tập trung vào phát triển kinh tế. Kinh tế đã trở thành vấn đề cốt lõi trong mọi hoạt động quốc tế. Các quốc gia đều nhận thấy rằng, muốn đặt chân vào cộng đồng các dân tộc trên thế giới cần phải đặt phát triển kinh tế lên vị trí hàng đầu, và con đường duy nhất là phải chủ động hội nhập kinh tế, phù hợp với xu hướng toàn cầu và khu vực. Không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển kinh tế mà lại không tham gia vào phân công lao động quốc tế và trao đổi hàng hoá với bên ngoài. Hoạt động thương mại quốc tế có vai trò như một chiếc cầu nối liên kết hoạt động kinh tế của các quốc gia, biến nền kinh tế thế giới thành một guồng máy hoạt động có hiệu quả hơn. Có thể nói thương mại quốc tế có vai trò không nhỏ, tác động trực tiếp đến sự phát triển của nền kinh tế các quốc gia trên thế giới, vì vậy việc xây dựng chính sách thương mại quốc tế phù hợp luôn được xem là vẫn đề trọng yếu của mỗi quốc gia để xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế cho mỗi quốc gia đó. Nhận thấy tầm quan trọng của hoạt động thương mại quốc tế, chúng em lựa chọn đề tài ” Vai trò của Thương mại quốc tế đối với sự phát triển kinh tế Thế giới” đề phân tích, đánh giá tình hình phát triển và sự tác động của thương mại quốc tế đối với nền kinh tế thế giới cũng như đưa ra một số dự đoán về xu hướng phát triển của Thương mại quốc tế trong giai đoạn tới. Kết cấu bài tiểu luận của chúng em bao gồm 3 phần chính: Phần I: Lý thuyết chung về Thương mại quốc tế Phần II: Tình hình thương mại quốc tế và tác động của nó đến sự phát triển của kinh tế thế giới (2001-2011) Phần III: Dự báo sự phát triển của Thương mại quốc tế trong giai đoạn tới(2012-2017) Hà Nội,ngày 27 tháng 5 năm 2012

1

Tiểu luận quan hệ kinh tế quốc tế PHẦN I: LÝ THUYẾT CHUNG VỂ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 1. Khái niệm, chức năng của hoạt động thương mại quốc tế 1.1 Khái niệm Thương mại quốc tế(TMQT) là một hình thức của quan hệ kinh tế quốc tế trong đó diễn ra sự mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ hoặc các tài sản trí tuệ giữa các chủ thể của quan hệ kinh tế quốc tế. Điều kiện để thương mại quốc tế tồn tại và phát triển là: – Có sự tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hóa-tiền tệ, kèm theo đó là sự xuất hiện của tư bản thương nghiệp. – Có sự ra đời của nhà nước và sự phát triển của phân công lao động quốc tế. Ngoại thương đã xuất hiện từ thời cổ đại: dưới chế độ nhà nước chiếm hữu nô lệ và tiếp đó là chế độ nhà nước phong kiến. Thời đó, do kinh tế tự nhiên còn chiếm vị trí thống trị, nên thương mại quốc tế mang tính chất ngẫu nhiên, phát triển với quy mô rất nhỏ, hẹp. Lưu thông hàng hóa quốc tế chỉ gồm một phần nhỏ nhiều sản phẩm sản xuất ra và chủ yếu là để phục vụ cho tiêu dùng cá nhân của giai cấp thống trị đương thời. Đến thời đại tư bản chủ nghĩa, thương mại quốc tế mới phát triển rộng rãi. Các cuộc cách mạng lớn diễn ra trong thương nghiệp ở thế kỷ XVI và XVII gắn liền với những phát kiến địa ký đã dẫn tới sự phát triển nhanh chóng của tư bản thương nhân. Tính tất yếu nội tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là phải tái sản xuất tren một quy mô ngày càng lớn hơn để phát triển thu lợi nhuận. Điều đó, thúc đẩy thị trường thế giới phải không ngừng mở rộng, thương mại quốc tế ngày càng phát triển. Ngày nay càng có nhiều nước ở nhiều trình độ phát triển kinh tế- xã hội khác nhau thuộc nhiều khu vực lãnh thổ khác nhau cùng tham gia vào mậu dịch quốc tế. Nhất là trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới như hiện nay,thì thương mại quốc tế càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của một nước. 1.2 Chức năng của hoạt động ngoại thương Chức năng của một ngành kinh tế là một phạm trù khách quan, được hình thành trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. 2

Tiểu luận quan hệ kinh tế quốc tế Chức năng của thương mại quốc tế là lưu thông hàng hóa giữa trong nước và nước ngoài. Tuy vậy, cần phân biệt chức năng của thương mại quốc tế với tư cách là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, với tư cách là một lĩnh vực kinh tế. Là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, thương mại quốc tế có thể có các chức năng sau: Thứ nhất, tạo vốn cho quá trình mở rộng đầu tư trong nước. Thứ hai, chuyển hóa giá trị sử dụng làm thay đổi cơ cấu vật chất của tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân được sản xuất trong nước và thích ứng chúng với nhu cầu tiêu dùng và tích lũy. Thứ ba, góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế bằng việc tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh. Là một lĩnh vực kinh tế đảm nhận lưu thông hàng hóa giữa trong nước và ngoài nước, chức năng cơ bản của ngoại thương là: tổ chức chủ yếu quá trính lưu thông hàng hóa với bên ngoài, thông qua mua bán để nối liền một cách hữu cơ theo kế hoạch giữa thị trường trong và ngoài nước, thỏa mãn nhu cầu sản xuất của xã hội về hàng hóa theo số lượng, chất lượng, mặt hàng, địa điểm và thời gian phù hợp với chi phí thấp nhất. Để thực hiện được chức năng quan trọng trên, thương mại quốc tế cần có sự quản lý của nhà nước. Nhà nước quản lý hoạt động thương mại quốc tế theo cơ chế thích hợp cho từng thời kỳ phát triển. Trong cơ chế quản lý kinh tê theo mô hình kế hoạch hóa tập trung, quản lý Nhà nước về thương mại quốc tế hoàn toàn khác với quản lý TMQT trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước trong việc mua bán hàng hóa, dịch vụ. 2. Các hình thức của thương mại quốc tế 2.1 Thương mại quốc tế về hàng hóa Thương mại quốc tế về hàng hóa là hình thức thương mại trong đó diễn ra việc mua bán trao đổi các sản phẩm, hàng hóa thể hiện dưới dạng vật chất hữu hình.

3

5

Tiểu luận quan hệ kinh tế quốc tế Dùng lợi thế tuyệt đối chỉ giải thích được một phần rất nhỏ trong mậu dịch thế giới hiện nay. Có thể minh họa lợi thế tuyệt đối bằng một ví dụ như sau: chúng ta giả thuyết trường hợp của hai nước Hoa kỳ và Anh với việc 2 nước sản xuất 2 mặt hàng là lúa mì và vải Sản phẩm

Hoa Kỳ

Anh Lúa mì (giạ/người/giờ) 6 1 Vải (m/người/giờ) 4 5 Hoa Kỳ có lợi thế tuyệt đối so với Anh về sản xuất lúa mì. Anh có lợi thế tuyệt đối so với Hoa Kỳ về sản xuất vải 3.2 Lợi thế tương đối ( lợi thế so sánh) Phát triển lý thuyết lợi thế tuyệt đối của hoạt động thương mại quốc tế D. Ricardo đã nghiên cứu lợi thế này dưới góc độ chi phí so sánh để sản xuất ra sản phẩm. Ví dụ, xét khả năng trao đổi sản phẩm giữa Việt Nam và Nga đối với hai sản phẩm thép và quần áo. Bảng 1: Chi phí sản xuấất

Sản phẩm Thép(1 đơn vị) Quần áo(1 đơn vị)

Xét theo chi phí sản xuất thì Việt Nam sản xuất thép và quần áo đều có chi phí cao hơn Nga. Lợi thế tuyệt đối chỉ ra rằng Việt Nam không có khả năng xuất khẩu sản phẩm nào sang Nga. Song nếu xét chi phí so sánh thì lại có cái nhìn khác.

Bảng 2: Chi phí so sánh

Sản phẩm

6

Tiểu luận quan hệ kinh tế quốc tế Chi phí so sánh Việt Nam Nga Thép( 1 đơn vị) 5 4 Quần áo(1đơnv ị) 1/5 1/4 Theo chi phí so sánh thì thấy rằng chi phí sản xuất thép của Việt Nam cao hơn Nga: để sản xuất một đơn vị thép ở Việt Nam cần 5 đơn vị quần áo trong khi ở Nga chỉ cần 4 đơn vị. Nhưng ngược lại chi phí sản xuất quần áo ở Việt Nam lại thấp hơn ở Nga, để sản xuất ra một đơn vị quần áo ở Việt Nam cần 1/5 đơn vị thép, trong khi ở Nga cần 1/4 đơn vị. Điều này chỉ ra rằng Việt Nam và Nga có thể trao đổi sản phẩm cho nhau. Nga xuất khẩu thép sang Việt Nam và Việt Nam xuất khẩu quần áo sang Nga. Việc trao đồi này đem lại lợi ích cho cả hai nước. Như vậy, lợi thế so sánh của thương mại quốc tế là khả năng nâng cao mức sống và thu nhập thực tế của một nước thông qua việc mua bán, trao đồi hàng hóa với nước khác dựa trên cơ sở chi phí so sánh để sản xuất hàng hóa. 3.3 Lợi thế nguồn lực của Hecksher- Ohlin D. Ricardo đã đặt nền móng ban đầu cho việc lý giải sự hình thành quan hệ thương mại giữa hai quốc gia, đó chính là sự khác nhau về giá cả sản phẩm tính theo chi phí so sánh. Tuy vậy, ông chưa phân tích sâu về nguyên nhân của sự khác nhau đó và chưa giải thích vì sao giữa các nước lại có chi phí so sánh khác nhau. Để làm rõ điều này, hai nhà kinh tế người Thụy Điển là Eli Heckscher và Bertil Ohlin đã phát triển lý thuyết lợi thế so sánh, được gọi là lý thuyết Heckscher – Ohlin (H-O). Lý thuyết H-O cho rằng chính sự khác nhau về mức độ sử dụng yếu tố để sản xuất sản phẩm là những nhân tố quan trọng quyết định sự khác biệt về chi phí so sánh. Xét lại ví dụ về quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nga, có thể giải thích rằng: Việt Nam là nước tương đối sẵn có về lao động, Việt Nam sẽ sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may là mặt hàng cần nhiều lao động. Còn Nga là nước tương đối sẵn có về vốn sẽ sản xuất và xuất khẩu thép, là mặt hàng cần nhiều vốn. Lý thuyết H-O đã giải thích được sự có được lợi ich trong thương mại quốc tế là do mỗi nước đều hướng đến chuyên môn hóa sản xuất vào các 7

Tiểu luận quan hệ kinh tế quốc tế ngành sử dụng nhiều yếu tố sẵn có trong nước. Như vậy, có thể có lợi thế so sánh cho phép bất kỳ nước nào cũng có thể tăng thu nhập của mình thông qua thương mại quốc tế, ngay cả khi một nước sản xuất mọi sản phẩm với chi phí tuyệt đối thấp hơn một nước khác, bởi vì thị trường thế giới tạo ra cơ hôi để có thể mua hàng hóa với giá tương đối rẻ so với giá đang được lưu hành trong nước nếu không có thương mại quốc tế. Nội dung này xuất phát từ sự khác nhau về chi phí so sánh để sản xuất sản phẩm.

8

Tiểu luận quan hệ kinh tế quốc tế

PHẦN II: TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI QUỐC TẾVÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THẾ GIỚI (2001-2011) 1. Tình hình phát triển thương mại quốc tế 1.1Tình hình phát triển TM hàng hóa 1.1.1 Kim ngạch XK Giai đoạn 1990 – 2008, với sự ra đời của tổ chức Thương Mại Quốc Tế WTO (1/1/1995) kế tục và mở rộng phạm vi điều tiết thương mại quốc tế của tổ chức tiền thân, GATT – Hiệp định chung về Thuế quan Thương mại, thế giới đã chứng kiến một giai đoạn phát triển mạnh mẽ của giao thương quốc tế, khối lượng hàng hóa được xuất khẩu ra thị trường thế giới liên tục tăng trong giai đoạn này. Điều đó được thể hiện rất rõ qua bảng sau:

Hình 1: giá trị xuất khẩu hàng hóa thế giới (1990-2013) (Nguồn: Ban thư ký WTO) (http://www.wto.org/english/news_e/pres12_e/pr658_e.htm) Khối lượng hàng hóa xuất khẩu của thế giới liên tục tăng nhanh, từ 100 đơn vị năm 1990 lên gần gấp 3 lần là 280 đơn vị vào năm 2007. Tuy nhiên, 9

Tiểu luận quan hệ kinh tế quốc tế cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 – 2009, bắt nguồn từ cú vỡ bong bóng nhà đất tại Mĩ, và lan ra các nền kinh tế lớn, nhỏ toàn cầu. Cuộc khủng hoảng đã làm sụp đổ toàn bộ hệ thống tiền tệ của các ngân hàng hàng đầu thế giới và dẫn đến sự phá sản của hàng loạt tập đoàn kinh tế, làm ảnh hưởng rất lớn đến thương mại quốc tế, thế giới đã có một bước tụt lùi đáng kể, sản lượng xuất khẩu hàng hóa của thế giới đã giảm xuống còn gần 250 năm 2009. Theo nguồn từ ban thư ký WTO, năm 2009 GDP toàn cầu giảm khoảng 2,5% và tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của thế giới giảm mạnh khoảng 12% (Hình 1).

Hình 2: sự tăng trưởng giá trị xuất khẩu hàng hóa và GDP thế giới(2005-2013) (Nguồn: Ban thư ký WTO) (http://www.wto.org/english/news_e/pres12_e/pr658_e.htm) Đến năm 2010, khi thế giới đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, thương mại thế giới có xu thế tăng trưởng mạnh. Tổng hợp số liệu thống kê của 70 nền kinh tế chiếm 90% thương mại toàn cầu cho thấy giá trị thương mại hàng hóa toàn cầu trong quý II/2010 vừa qua đã tăng 25% so với quý I/2010, trong đó xuất khẩu tăng 26% và nhập khẩu tăng 25%. Giá trị thương mại hàng hóa tăng 10

Tiểu luận quan hệ kinh tế quốc tế mạnh nhất là ở châu Á – khu vực kéo thế giới thoát khỏi khủng hoảng (37,5%) và khu vực Bắc Mỹ (28,5%). Thương mại toàn cầu năm 2010 tăng 13,8% so với năm 2009. Sang năm 2011, một loạt các sự kiện và diễn biến xấu đã xảy ra gây cản trở và thiệt hại không nhỏ cho thương mại Quốc tế. Các sự kiện có thể kể đến như là khủng hoảng nợ công ở Châu Âu, một loạt các cuộc nổi dậy và chiến tranh tại Châu Phi cụ thể là Libya… đã làm giảm nguồn cung dầu ra thế giới khoảng 8%. Sóng thần tại Nhật Bản, lũ lụt lớn ở Thái Lan … các thảm họa tự nhiên này đã tác động rất lớn đến chuỗi cưng ứng và sản xuất tại Nhật Bản và Trung Quốc làm giảm khả năng cung ứng hàng hóa cho xuất khẩu Quốc tế. Tất cả các sự kiện trên đã làm cho tình hình thương mại Quốc tế xấu đi khá là nhiều, cụ thể tổng kim ngạch thương mại thế giới tăng trưởng chậm lại còn 5%, một sự chậm lại rõ rệt, thấp hơn mức tăng trưởng bình quân giai đoạn 1990 – 2007 là 5.4%, chậm hơn rất nhiều so với năm 2010 là 13,8%. Tổng giá trị kim ngạch thương mại hàng hóa thế giới năm 2011 đạt 18,2 ngàn tỷ USD, vượt qua đỉnh cao trước đây là 16,1 ngàn tỷ USD năm 2008. Tuy là vượt đỉnh xong phần lớn tăng trưởng là do giá cả hàng hóa thế giới tăng cao hơn trước chứ không phải tăng về quy mô hay số lượng. Đã bước qua năm 2011 nhưng châu Âu vẫn chìm trong khủng hoảng nợ, Trung Quốc và Mỹ tăng trưởng chậm chạp, nước Nhật chưa hoàn toàn phục hồi sau thảm họa động đất, sóng thần hồi đầu năm, lạm phát hoành hành ở khắp mọi nơi. Triển vọng kinh tế toàn cầu 2012 sẽ là rất bếp bênh. Với những khó khăn chung còn tồn tại, WTO dự báo thương mại quốc tế trong năm nay sẽ còn tăng trưởng chậm hơn năm 2011 và có thể chỉ là 3,7% . Dù còn khó khăn xong vẫn tăng trưởng, cả thế giới đang cùng lỗ lực khắc phục những khó khăn để đưa kinh tế thế giới không lâm vào khủng hoảng mới, chúng ta cùng hy vọng vào một tương lai tươi sáng của kinh tế thế giới và cả thương mại quốc tế trong những năm sắp tới.

11

Tiểu luận quan hệ kinh tế quốc tế

1.1.2 Cơ cấu sản phẩm XK Khối lượng các loại hàng hóa được xuất khẩu ra thị trường thế giới được tổng hợp từ các bảng sau:

Hình 3: Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu thế giới(1990-2009) (Nguồn: Ban thư ký WTO) (http://www.wto.org/english/res_e/booksp_e/anrep_e/world_trade_report11_ e.pdf) Biểu đồ tỷ trọng các loại hàng qua các năm

12

Tiểu luận quan hệ kinh tế quốc tế

Hình 4: Tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa thế giới (2000,2008,2009)

13

Tiểu luận quan hệ kinh tế quốc tế

Hình 5: cơ cấu xuất khẩu theo hàng hóa thế giới năm 2010(Nguồn: Ban thư ký WTO) (http://www.wto.org/english/res_e/statis_e/world_region_export_10_e.pdf) Tổng giá trị xuất khẩu hàng năm liên tục tăng xong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của thế giới nhìn chung những năm qua biến động không nhiều, hàng hóa sản xuất vẫn chiếm phần lớn trong tổng kim ngạch hàng xuất khẩu của thế giới (trên dưới 70%), tiếp đến là hàng nhiên liệu và khai thác mỏ (xấp xỉ 20%), hàng nông nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch ( khoảng 10%). 1.1.3 Kim ngạch xuất khẩu của các khu vực và 10 nước đứng đầu trong những nước xuất khẩu Trong năm 2011, khu vực xuất khẩu lớn nhất trên toàn thế giới là châu Âu, chiếm 37% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn thế giới, đứng thứ 2 là khu vực châu Á với 31%, thứ ba là Bắc Mỹ chiếm 13%, tiếp đến là khu vực Trung Đông 7%, Liên bang Nga và Nam Mỹ cùng chiếm 4%, cuối cùng là châu Phi 3%.

14

Tiểu luận quan hệ kinh tế quốc tế

Hình 6:Xuất nhập khẩu hàng hóa theo khu vực năm 2011 (Nguồn: Ban thư ký WTO) (http://www.wto.org/english/news_e/pres12_e/pr658_e.htm) Điểm đáng lưu ý nhất là các nước khu vực châu Á bao gồm các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ… trong những năm qua đã có sự tăng trưởng xuất khẩu mạnh mẽ, dự báo trong tương lai gần khu vực này sẽ vươn lên đứng đầu danh sách và là khu xuất khẩu lớn của toàn thế giới.

15

Tiểu luận quan hệ kinh tế quốc tế

Tên quốc gia

Giá trị xuất

Tỷ

Tăng

Hình 7: Các nước có kim ngạch xuất khẩu,nhập khẩu hàng hóa đứng đầu thế giới (2011) (Nguồn: Ban thư ký WTO)(dữ liệu đã được xử lý) Trong danh sách các nước đứng đầu kim ngạch xuất khẩu năm 2011 do WTO công bố thì 10 nước, khu vực kinh tế đứng đầu lần lượt là: các nước ngoài EU, Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, LB Nga, Hồng Kông TQ, Canada, Singapore, Ả rập Saudi… Nổi bật nhất là Trung Quốc đã vươn lên đứng thứ 2 vượt hai cường quốc là Mỹ và Nhật Bản.

16

(Nguồn: Ban thư ký WTO) Hình 8: Tình hình xuất khẩu của một số nước đứng đầu

17

Tiểu luận quan hệ kinh tế quốc tế 1.2.Tình hình phát triển thương mại dịch vụ 1.2.1 Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ Sự phát triển của kim ngạch xuất khẩu thương mại dịch vụ ( 1980 – 2007 ) 11 10

9

7

6

5

4

Chú thích : Thế giới Các nước đang phát triển Các nước phát triển Nguồn: Chỉ số Phát triển Thế giới, Ngân hàng Thế giới, năm 2010 Hình 9:Sự phát triển kim ngạch dịch vụ(1980-2007) Trong giai đoạn 1990 – 1998, thương mại dịch vụ của thế giới tăng 6,4%/năm, cao hơn mức tăng trưởng 5,9% của thương mại hàng hóa (WTO, 1999, trích bởi OECD, 2000: 25).Tuy nhiên, thương mại dịch vụ ngày nay vẫn

18

Tiểu luận quan hệ kinh tế quốc tế chỉ chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch thương mại hàng hóa và dịch vụ (OECD, 2000: 24). Xu hướng gia tăng của thương mại dịch vụ có các đặc điểm sau: Một là sự gia tăng không đều ở các nền kinh tế. Thương mại dịch vụ chủ yếu tập trung ở các nền kinh tế phát triển. Năm 2004, 20 nền kinh tế phát triển hàng đầu của thế giới chiếm đến 75% tổng xuất khẩu dịch vụ của thế giới; trong đó 5 nền kinh tế hàng đầu (Mỹ, Anh, Nhật, Pháp, Đức) chiếm 39%; với Mỹ đứng đầu, chiếm 15% tiếp theo là Anh chiếm 8,1% (FORFAS, 2006: 33). Thương mại dịch vụ dường như còn là lợi thế của các nền kinh tế phát triển xét theo cán cân thương mại. Thí dụ, kể từ năm 1971, Mỹ luôn đạt thặng dư trong xuất khẩu dịch vụ. Năm 2005, thặng dư trong thương mại dịch vụ của Mỹ đã đạt tới 56,3 tỷ USD (US service economy overview, web). Hai là thương mại của các ngành dịch vụ gia tăng không đều. Năm 2005, nếu xét theo ba ngành lớn thì ngành giao thông vận tải chỉ chiếm 24% tổng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ, du lịch và lữ hành chiếm 29% còn các ngành còn lại (trong đó có ngành dịch vụ kinh doanh) chiếm tới 48% (so với mức 35% năm 1980). Trong các ngành dịch vụ thì xuất khẩu dịch vụ máy tính và dịch vụ thông tin tăng nhanh nhất, bình quân 20%/năm, tiếp đó là xuất khẩu dịch vụ bảo hiểm (17%/năm) và dịch vụ tài chính (9,7%/năm). Xuất khẩu của các ngành giao thông vận tải, du lịch và lữ hành, dịch vụ chính phủ và xây dựng đều tăng ở dưới mức bình quân của xuất khẩu dịch vụ nói chung (FORFAS, 2006: 33). Ba là phương thức “hiện diện thương mại” trong thương mại dịch vụ ngày càng phổ biến. Xu hướng này hoàn toàn phù hợp với xu hướng gia tăng FDI trong ngành dịch vụ. Theo ước tính của WTO, năm 2006 phương thức hiện diện thương mại (phương thức 3) chiếm tới 50% hoạt động thương mại dịch vụ, vượt xa các phương thức thương mại dịch vụquốc tế khác (phương thức 1: cung cấp qua biên giới chiếm 35%, phương thức 2: tiêu dùng ở nước ngoài chiếm 1015% và phương thức 4: hiện diện của thể nhân: 1 – 2%) (FORFAS, 2006: 27). Kế từ năm 1996, xuất khẩu dịch vụ của Mỹ theo phương thức 3 đã vượt quá 19

Tiểu luận quan hệ kinh tế quốc tế toàn bộ xuất khẩu dịch vụ theo các phương thức 1, 2 và 4, và đạt mức chênh lệch 156,7 tỷ USD năm 2001. Còn nhập khẩu dịch vụ theo phương thức 3 của Mỹ vượt nhập khẩu dịch vụ theo các phương thức 1, 2, 4 kể từ năm 1989 và đạt mức chênh lệch 165,3 tỷ USD năm 2001 (USDOC, 2003: 59). Thương mại dịch vụ cũng chịu tác động của nhiều yếu tố như đầu tư vào ngành dịch vụ nói trên. Yếu tố cơ bản thúc đẩy thương mại dịch vụ là công nghệ thông tin đã tạo điều kiện cho nhiều ngành dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ kinh doanh, có khả năng mua bán được (FORFAS, 2006: 31). Mặc dù vậy, tự do hóa thương mại dịch vụ vẫn còn bị hạn chế do thương mại dịch vụ phức tạp hơn thương mại hàng hóa rất nhiều nên khó thể có những biện pháp tự do hóa đồng loạt mà chỉ có các biện pháp mở cửa theo ngành. 1.2.2 Kim ngạch từng nhóm hàng Hàng hóa Dịch vụ Vận tải Du lịch Các loại dịch vụ khác

Giá trị 2011

2009

18271

-22

22

19

10

Hình 10: xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ thương mại của thế giới, 2005-11 (Tỷ $ và % thay đổi hàng năm).(Nguồn: Ban thư ký về hàng hóa của WTO và Ban thư ký về các dịch vụ thương mại của UNCTAD) Dịch vụ thương mại xuất khẩu tăng từ 11% trong năm 2011 lên 4,1 nghìn tỷ USD. Dịch vụ vận tải ghi nhận sự tăng trưởng chậm nhất trong bất kỳ loại dịch vụ phụ nào (8%), tiếp theo là dịch vụ thương mại khác (11%) và du lịch (12%). Sự tăng trưởng chậm của dịch vụ vận tải có lẽ là không ngạc nhiên khi xem xét mối quan hệ chặt chẽ giữa các loại dịch vụ và thương mại hàng hoá, đã bị đình trệ trong nửa cuối năm 2011. Du lịch thế giới vẫn tăng trưởng bất chấp khủng hoảng. Lượng khách du lịch quốc tế năm 2011 ước đạt 980 triệu lượt khách, tăng gần 4,5% so với năm

20