Vẽ Sơ Đồ Cấu Tạo Từ Tiếng Việt / Top 10 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Nhatngukohi.edu.vn

Vẽ Sơ Đồ Khối Cấu Trúc Cơ Bản Của Máy Tính

Một màn hình CRT.

Thường gặp nhất là các loại màn hình máy tính với nguyên lý ống phóng chùm điện tử (ống CRT, nên thường đặt tên cho loại này là “loại CRT”).

Các màn hình loại CRT có các ưu nhược điểm:

Ưu điểm: Thể hiện màu sắc rất trung thực, tốc độ đáp ứng cao, độ phân giải có thể đạt được cao. Phù hợp với games thủ và các nhà thiết kế, xử lý đồ hoạ.Nhược điểm: Chiếm nhiều diện tích,nặng, tiêu tốn điện năng hơn các loại màn hình khác, thường gây ảnh hưởng sức khoẻ nhiều hơn với các loại màn hình khác.

Màn hình máy tính loại tinh thể lỏng dựa trên công nghệ về tinh thể lỏng nên rất linh hoạt, có nhiều ưu điểm hơn màn hình CRT truyền thống, do đó hiện nay đang được sử dụng rộng rãi, dần thay thế màn hình CRT.

Ưu điểm: Mỏng nhẹ, không chiếm diện tích trên bàn làm việc. Ít tiêu tốn điện năng so với màn hình loại CRT, ít ảnh hưởng đến sức khoẻ người sử dụng so với màn hình CRT.Nhược điểm: Giới hạn hiển thị nét trong độ phân giải thiết kế (hoặc độ phân giải bằng 1/2 so với thiết kế theo cả hai chiều dọc và ngang), tốc độ đáp ứng chậm hơn so với màn hình CRT (tuy nhiên năm 2007 đã xuất hiện nhiều model có độ đáp ứng đến 2 ms), màu sắc chưa trung thực bằng màn hình CRT.

Độ phân giải của màn hình tinh thể lỏng dù có thể đặt được theo người sử dụng, tuy nhiên để hiển thị rõ nét nhất phải đặt ở độ phân giải thiết kế của nhà sản xuất. Nguyên nhân là các điểm ảnh được thiết kế cố định (không tăng và không giảm được cả về số điểm ảnh và kích thước), do đó nếu thiết đặt độ phân giải thấp hơn độ phân giải thiết kế sẽ xảy ra tình trạng tương tự việc có 3 điểm ảnh vật lý (thực) dùng để hiển thị 2 điểm ảnh hiển thị (do người sử dụng thiết đặt), điều xảy ra lúc này là hai điểm ảnh vật lý ở sẽ hiển thị trọn vẹn, còn lại một điểm ảnh ở giữa sẽ hiển thị một nửa điểm ảnh hiển thị này và một nửa điểm ảnh hiển thị kia – dẫn đến chỉ có thể hiển thị màu trung bình, dẫn đến sự hiển thị không rõ nét.

Điểm chết trong màn hình tinh thể lỏng

Một trong các tiêu chí quan trọng để đánh giá về màn hình tinh thể lỏng là các điểm chết của nó (khái niệm điểm chết không có ở các loại màn hình CRT).Điểm chết được coi là các điểm mà màn hình không thể hiển thị đúng màu sắc, ngay từ khi bật màn hình lên thì điểm chết chỉ xuất hiện một màu duy nhất tuỳ theo loại điểm chết.Điểm chết có thể xuất hiện ngay từ khi xuất xưởng, có thể xuất hiện trong quá trình sử dụng.Điểm chết có thể là điểm chết đen hoặc điểm chết trắng. Với các điểm chết đen chúng ít lộ và dễ lẫn vào hình ảnh, các điểm chết trắng thường dễ nổi và gây ra sự khó chịu từ người sử dụng.Theo công nghệ chế tạo các điểm chết của màn hình tinh thể lỏng không thể sửa chữa được. Thường tỷ lệ xuất hiện điểm chết của màn hình tinh thể lỏng chiếm khoảng 30% tổng sản phẩm xuất xưởng nên các hãng sản xuất có các chế độ bảo hành riêng. Một số hãng cho phép đến 3 điểm chết (mà không bảo hành), một số khác là 5 điểm do đó khi lựa chọn mua các màn hình tinh thể lỏng cần chú ý kiểm tra về số lượng các điểm chết sẵn có.Để kiểm tra các điểm chết trên các màn hình tinh thể lỏng, tốt nhất dùng các phần mềm chuyên dụng (dẫn dễ tìm các phần mềm kiểu này bởi chúng thường miễn phí), nếu không có các phần mềm, người sử dụng có thể tạo các ảnh toàn một màu đen, toàn một màu trắng, toàn một màu khác và xem nó ở chế độ chiếm đầy màn hình (full screen) để kiểm tra.

Đèn nền trong màn hình tinh thể lỏng

Công nghệ màn hình tinh thể lỏng phải sử dụng các đèn nền để tạo ánh sáng đến các tinh thể lỏng. Khi điều chỉnh độ sáng chính là điều chỉnh ánh sáng của đèn nền. Điều đáng nói ở đây là một số màn hình tinh thể lỏng có hiện tượng lọt sáng tại các viền biên của màn hình (do cách bố trí của đèn nền và sự che chắn cần thiết) gây ra cảm giác hiển thị không đồng đều khi thể hiện các bức ảnh tối. Khi chọn mua cần thử hiển thị để tránh mua các loại màn hình gặp lỗi như vậy, cách thử đơn giải nhất là quan sát viền màn hình trong thời điểm khởi động Windows xem các vùng sáng có quá lộ hay không.

Ngoài hai thể loại chính thông dụng trên, màn hình máy tính còn có một số loại khác như:

Màn hình cảm ứng

Màn hình cảm ứng là các loại màn hình được tích hợp thêm một lớp cảm biến trên bề mặt để cho phép người sử dụng có thể điều khiển, làm việc với máy tính bằng cách sử dụng các loại bút riêng hoặc bằng tay giống như cơ chế điều khiển của một số điện thoại thông minh hay Pocket PC.Màn hình cảm ứng xuất hiện ở một số máy tính xách tay cùng với hệ điều hành Windows 8. Một số máy tính cho các tụ điểm công cộng cũng sử dụng loại màn hình này phục vụ giải trí, mua sắm trực tuyến hoặc các mục đích khác – chúng được cài đặt hệ điều hành Windows Vista mới nhất.

Màn hình máy tính sử dụng công nghệ OLED

Là công nghệ màn hình mới với xu thế phát triển trong tương lai bởi các ưu điểm: Cấu tạo mỏng, tiết kiệm năng lượng, đáp ứng nhanh, tuổi thọ cao…Về cơ bản, ngoại hình màn hình OLED thường giống màn hình tinh thể lỏng nhưng có kích thước mỏng hơn nhiều do không sử dụng đèn nền.

Sơ Đồ Cấu Tạo Của Máy Hàn?

Danh sách câu trả lời (3)

Từ bài viết của mqbkcomp Bạn hỏi thế này chung chung qua, mối loại máy hàn có công nghệ điều khiển khác nhau nên kiến trúc khác nhau. Ví dụ: máy hàn AC, DC, inverter… Trong máy hàn Inverter lại có nhiều loại: công nghệ Thyristor, IGBT, MOSFET… Nhưng nói chung dù công nghệ thế nào thì máy hàn cũng có một biến áp hàn là thiết bị thay đổi điện áp từ điện áp nguồn sang điện áp hàn. Nếu là máy hàn DC thì chỉnh lưu điện áp xoay chiều thứ cấp là xong, Máy hàn IGBT thì băm xung điện áp là được. Nên trong máy hàn thì biến áp hàn là bộ phận chung cho mọi loại máy hàn.

Bạn có thể hiểu 1 cách đơn giản và chung nhất như thế này: Máy hàn điện thực chất là 1 cái máy biến điện áp, thông thường có 2 cuộn dây. Cuộn sơ cấp dây nhỏ nối vào điện áp nguồn (220V chẳng hạn), cuộn thứ cấp ít vòng, dây to nối ra đầu mỏ hàn. Phía thứ cấp số vòng dây ít để có điện áp ra thấp cho an toàn, dây có tiết diện lớn để có dòng điện cao khi hàn (thực chất là ngắn mạch thứ cấp) gây nóng chảy tại nơi cần hàn thông qua que hàn. Trong máy hàn còn có bộ điều chỉnh dòng điện thứ cấp để phù hợp với vật hàn to hay nhỏ.

Bạn hỏi thế này chung chung qua, mối loại máy hàn có công nghệ điều khiển khác nhau nên kiến trúc khác nhau. Ví dụ: máy hàn AC, DC, inverter… Trong máy hàn Inverter lại có nhiều loại: công nghệ Thyristor, IGBT, MOSFET… Nhưng nói chung dù công nghệ thế nào thì máy hàn cũng có một biến áp hàn là thiết bị thay đổi điện áp từ điện áp nguồn sang điện áp hàn. Nếu là máy hàn DC thì chỉnh lưu điện áp xoay chiều thứ cấp là xong, Máy hàn IGBT thì băm xung điện áp là được. Nên trong máy hàn thì biến áp hàn là bộ phận chung cho mọi loại máy hàn.

Câu hỏi lĩnh vực Máy cơ khí, công nghiệp

Từ Và Cấu Tạo Từ Của Tiếng Việt

I. – CỦNG CỐ VÀ MỞ RỘNG KIẾN THỨC

1. Khái niệm: Từ là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất dùng để đặt câu.

– về chức năng: Từ là đơn vị dùng để đặt câu. Nhờ đặc điểm này mà phân biệt từ với tiếng. Tiếng chỉ có chức năng cấu tạo từ. Những tiếng có thể dùng độc lập để đặt câu được gọi là từ đơn.

Ví dụ: từ học sinh gồm hai tiếng: học + sinh.

– về cấu trúc: trong số các đon vị dùrig để đặt câu, từ là đon vị nhỏ nhất. Nhờ đặc điểm này mà phân biệt từ với đơn vị bậc trên nó là cụm từ.

Ví dụ: Trong câu: Sáng sáng, em đi học. gồm có 4 từ: sáng sáng, em, đi, học.

– Đa số các tiếng trong tiếng Việt có nghĩa, ví dụ: nhà, mẹ, vui, hoa…, cũng có những tiếng không có nghĩa, ví dụ: loắt (trong từ loắt choắt), xắn (trong từ xinh xắn),…

3. Phân loại từ theo cấu tạo ngữ pháp: dựa vào số lượng tiếng trong từ, có các loại từ sau:

– Từ đơn: từ chỉ gồm một tiếng (ví dụ: cá, thóc, vua, mèo,…).

– Từ phức: từ gồm hai hoặc nhiều tiếng (ví dụ: sách giáo khoa, con cháu, lom khom,…).

Từ phức được phân thành từ ghép và từ láy.

+ Từ ghép: từ được tạo ra bằng cách ghép các tiếng có quan hệ với nhau về nghĩa (ví dụ: ông bà, con cháu, hoa quả, xe đạp,…).

+ Từ láy: từ có quan hệ láy âm giữa các tiếng (ví dụ: ỉoắt choắt, lác đác, sạch sành sanh,…).

– Tìm hiểu về từ ghép, cần chú ý mối quan hệ ý nghĩa giữa các tiếng trong từ:

+ Các tiếng trong từ có quan hệ bình đẳng, tạo ra ý nghĩa tổng họp, khái quát hơn ý nghĩa của mỗi tiếng tạo thành (ví dụ: thầy trò, sách vở, học hành,…).

+ Các tiếng trong từ có quan hệ chính phụ, tạo ra ý nghĩa cụ thể hơn ý nghĩa của tiếng chính (ví dụ: hoa hồng, đỏ thắm, bánh trôi,…).

– Tìm hiểu về từ láy, cần chú ý quan hệ láy âm giữa các tiếng trong từ:

+ Láy lại toàn bộ tiếng, có thể có sự biến đổi về thanh điệu hoặc phụ âm cuối (ví dụ: đo đỏ, hun hút, xanh xanh).

+ Láy lại bộ phận phụ âm đầu của các tiếng (ví dụ: lạnh lẽo, buồn bã,…).

+ Láy lại bộ phận vần của các tiếng (ví dụ: lóc cóc, lềnh bềnh,…).

II. – LUYỆN TẬP Bài tập

1. Vẽ sơ đồ các loại từ tiếng Việt xét về cấu tạo.

2. Đọc kĩ đoạn thơ sau và thực hiện yêu cầu ở dưới:

a) Phân loại các từ trong đoạn thơ theo các nhóm: từ đơn, từ láy, từ ghép.

b) Nêu hiệu quả của việc sử dụng từ láy trong đoạn thơ.

c) Trong những từ láy vừa tìm, từ láy nào gợi tả hình dáng con người?

d) Tìm thêm những từ láy khác miêu tả hình dáng của con ngưòi.

a) Tạo 5 từ ghép có tiếng nhỏ.

b) Tạo 5 từ láy có tiếng nhỏ.

4. Đọc kĩ đoạn văn sau và thực hiện yêu cầu ở dưới:

Thuỷ Tinh đến sau, không lấy được vợ, đùng đùng nổi giận, đem quân đuổi theo đòi cướp Mị Nương. Thần hô mưa, gọi gió làm thành dông bão rung chuyển cả đất trời, dâng nước sông lên cuồn cuộn đánh Son Tinh. Nước ngập ruộng đồng, nước ngập nhà cửa, nước dâng lên lưng đồi, sườn núi, thành Phong Châu như nổi lềnh bềnh trên một biển nước.

(Sơn Tinh, Thuỷ Tinh)

a) Tìm từ láy trong đoạn văn trên.

b) Nêu hiệu quả của việc sử dụng các từ láy trong đoạn văn.

c) Hãy viết lại câu văn sau bằng cách thêm vào một số từ láy:

Nước ngập ruộng đồng, nước ngập nhà cửa, nước dâng lên lưng đồi, sườn núi, thành Phong Châu như nổi lềnh bềnh trên một biến nước.

5. Xanh và trắng là hai tiếng chỉ màu sắc, em hãy tạo ra những từ láy và từ ghép có tiếng xanh và tiếng trắng.

6. Viết đoạn văn (tối đa 10 dòng) nêu ý nghĩa của truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy. Sau đó, phân loại các từ theo các loại: từ đơn, từ ghép, từ láy.

Gợi ý

2. a) Phân loại các từ trong đoạn thơ theo các nhóm:

– Từ đơn: cái, xắc, chân, đầu, đội, lệch, mồm, huýt, sáo, vang, như, con, nhảy, trên, đường, vàng.

-Từ láy: loắt choắt, xinh xinh, thoăn thoắt, nghênh nghênh.

– Từ ghép: chú bé, ca lô, chim chích.

b) Hiệu quả của việc sử dụng từ láy trong đoạn thơ: góp phần làm cho cách diễn đạt sinh động, tăng sức gợi hình, gợi cảm. Làm hiện lên trước mắt người đọc một chú bé liên lạc nhỏ bé, nhanh nhẹn, tinh nghịch, hồn nhiên, đáng yêu.

c) Trong những từ láy vừa tìm, từ láy gợi tả hình dáng con người là: loắt choắt.

d) Một số từ láy khác miêu tả hình dáng của con người như: lom khom, lêu đêu, lòngkhòng,…

3. a) Tạo 5 từ ghép có tiếng nhỏ: nhỏ bé, nhỏ nhẹ, nhỏ tí, nhỏ xíu, nhỏ xinh.

b) Tạo 5 từ láy có tiếng nhỏ: nhỏ nhắn, nhỏ nhặt, nhỏ nhoi, nhỏ nhen, nho nhỏ.

4. a) Từ láy trong đoạn văn: đùng đùng, cuồn cuộn, lềnh bềnh.

b) Hiệu quả của việc sử dụng từ láy trong đoạn văn: góp phần làm cho cách diễn đạt sinh động, tăng sức gợi hình gợi cảm. Diễn tả cụ thể và chi tiết quang cảnh trận chiến giữa hai vị thần.

c) Viết lại câu văn bằng cách thêm vào một số từ láy:

Nước ngập ruộng đồng mênh mông, nước ngập nhà cửa lênh láng, nước dâng ào ạt lên lưng đồi, sườn núi, thành Phong Châu như nổi lềnh bềnh trên một biển nước.

5. Những từ láy và từ ghép có tiếng xanh và tiếng trắng:

+ Từ láy: xanh xanh, xanh xao,…

+ Từ ghép: xanh đỏ, xanh rì, xanh biếc,…

+ Từ láy: trắng trẻo, trăng trắng,…

+ Từ ghép: đen trắng, trắng tinh, trắng toát, trắng bạch,…

+ HS viết đúng một đoạn văn (bắt đầu từ chữ cái đầu tiên viết hoa lùi vào một ô và kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng).

+ Đọạn văn không dài quá 10 dòng.

– Yêu cầu về nội dung: Nêu ý nghĩa của truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy . HS có thể hướng đến những ý sau:

+ Truyền thuyết lí giải nguồn gốc ra đời của hai thứ bánh gắn với văn hoá dân tộc: bánh chưng, bánh giầy.

+ Hình ảnh bánh chưng tượng trưng cho đất; bánh giầy tượng trưng cho trời; đậu xanh, lá dong, thịt mỡ tượng trưng cho cây cỏ, cầm thú muôn loài.

+ Gửi gắm lòng hiếu thảo, biết ơn tổ tiên; tình yêu lao động, yêu quê hương, ruộng đồng và sự quý trọng nghề nông.

Sau khi viết xong đoạn văn, HS phân loại từ theo các loại: từ đơn, từ ghép, từ láy.

Các Kiểu Cấu·tạo Từ Tiếng Việt

Các Kiểu Cấu Tạo Từ Tiếng Việt

1. Từ đơn: là những từ được cấu tạo bằng một tiếng độc lập. Thí dụ: Nhà, xe, tập, viết, xanh,đỏ, vàng, tím,… – Xét về mặt lịch sử, hầu hết từ đơn là những từ đã có từ lâu đời. Một số từ có nguồn gốc thuần Việt, một số từ vay mượn từ các ngôn ngữ nước ngoài như tiếng Hán, tiếng Pháp, Anh, Nga,… – Xét về mặt ý nghĩa , từ đơn biểu thị những khái niệm cơ bản trong sinh hoạt của đời sống hàng ngày của người Việt, biểu thị các hiện tượng thiên nhiên, các quan hệ gia đình, xã hội , các số đếm,…

2. Từ ghép: là những từ có hai hoặc hơn hai tiếng được ghép lại với nhau dựa trên quan hệ ý nghĩa. Dựa vào quan hệ ngữ pháp giữa các yếu tố, có thể phân từ ghép ra làm 2 loại chính:

2.1. Từ ghép đẳng lập: Từ ghép đẳng lập có những đặc trưng chung là: A. – Quan hệ ngữ pháp giữa các thành tố trong từ là quan hệ bình đẳng. B. – Xét về mặt quan hệ ý nghĩa giữa các thành tố có thể thấy: a.+ Hoặc các thành tố đồng nghĩa nhau, trong đó: * Có thể có một yếu tố thuần Việt và một yếu tố Hán Việt. Ví dụ: bạn hữu, bụng dạ, máu huyết,… * Có thể cả hai yếu tố đều là Hán Việt. Ví dụ: tư duy, thổ địa, tiên lợi, cốt nhục,… * Có thể cả hai yếu tố đều là thuần Việt. Ví dụ: đợi chờ, máu mủ, xinh đẹp,… * Có thể có một yếu tố toàn dân và một yếu tố vố là từ địa phương. Ví dụ:Chân cẳng, bát đọi, chợ búa,… b.+ Hoặc các thành tố gần nghĩa nhau. Thí dụ: thương nhớ, nhà cửa, áo quần, ăn uống, đi đứng,… c. + Hoặc các thành tố trái nghĩa nhau. Thí dụ: đầu đuôi, sống chết, già trẻ, gần xa, trong ngoài,…

C. – Xét về mặt nội dung, nói chung, từ ghép đẳng lập thường gợi lên những phạm vi sự vật mang ý nghĩa phi cá thể hay tổng hợp ( tức biểu thị sự vật, tính chất hay hành động chung, mang tính chất khái quát ).

D. – Tuy có quan hệ bình đẳng về mặt ngữ pháp, nhưng không đưa đến hệ quả là ý nghĩa từ vựng của các thành tố trong từ đều có giá trị ngang nhau trong mọi trường hợp. Như ta sẽ thấy, những trường hợp một trong hai thành tố phai mờ nghĩa xảy ra phổ biến trong từ ghép đẳng lập.

E. – Căn cứ vào vai trò của các thành tố trong việc tạo nghĩa và phạm vi biểu đạt của từ ghép, có thể phân từ ghép đẳng lập thành ba loại nhỏ là từ ghép đẳng lập gộp nghĩa, từ ghép đẳng lập đơn nghĩa và từ ghép đẳng lập hợp nghĩa. a. + Từ ghép đẳng lập gộp nghĩa: bao gồm những từ ghép thuộc mô hình ngữ nghĩa AB = A+B. Tức là loại mà nghĩa của từng thành tố cùng nhau gộp lại để biểu thị ý nghĩa khái quát chung của cả từ ghép, trong ý nghĩa chung đó có ý nghĩa riêng của từng thành tố. Chẳng hạn, từ quần áo chỉ đồ mặc nói chung, trong đó có cả quần lẫn áo. Một số ví dụ về từ ghép gộp nghĩa: điện nước, xăng dầu, tàu xe, xưa nay, chạy nhảy, học tập, nghe nhìn, thu phát, ăn uống, tốt đẹp, may rủi, hèn mọn,thầy trò, vợ con… b. + Từ ghép đẳng lập đơn nghĩa: bao gồm từ ghép thuộc mô hình ngữ nghĩa AB = A hoặc B. Tức là loại mà nghĩa khái quát chung của cả từ ghép tương ứng với ý nghĩa của một thành tố có mặt trong từ. Ví dụ: núi non, binh lính, thay đổi, tìm kiếm,… Do nghĩa của cả từ ghép tương đương với nghĩa của một thành tố nên thành tố còn lại có xu hướng bị mờ nghĩa hoặc bị mất nghĩa. Yếu tố này sẽ làm chỗ dựa cho ý nghĩa của cả từ ghép. Có thể nói sự mờ nghĩa của núc (bếp núc), búa ( chợ búa), pheo ( tre pheo) … chính là kết quả cực đoan của mô hình đơn nghĩa này. Một số ví dụ về từ ghép đẳng lập đơn nghĩa: bếp núc, chợ búa, đường sá, heo cúi, áo xống, ăn mặc, ăn nói, viết lách, … Chú ý về trật tự các thành tố trong từ ghép đẳng lập. Bàn về từ ghép đẳng lập, người ta thường bàn đến khả năng hoán vị giữa các thành tố. Tuy nhiên cần chú ý là khả năng ấy không xảy ra phổ biến đối với toàn bộ lớp từ ghép đẳng lập, và không phải xảy ra vô điều kiện trong mọi trường hợp. Về hiện tượng này có thể nêu mấy nhận xét chung như sau: d. + Có thể hoán vị được đối với một số từ ghép gộp nghĩa trường hợp không có yếu tố Hán – Việt. Thí dụ: quần áo – áo quần, rủi may – may rủi, tươi tốt – tốt tươi,… e. + Khả năng hoán vị ít xảy ra giữa các thành tố trong từ ghép đơn nghĩa, đặc biệt đối với trường hợp từ ghép có yếu tố mờ nghĩa, mất nghĩa. f. + Khả năng hoán vị bị sự khống chế của một số yêu cầu: * Không được phép làm thay đổi ý nghĩa của từ ghép ban đầu. Ví dụ: đi lại – lại đi ; cơm nước – nước cơm khác nghĩa. * Không đi ngược lại tập quán cổ truyền của dân tộc. Ví dụ: nam nữ – nữ nam; ông bà – bà ông, anh em – em anh, vua quan – quan vua,… không hoán vị được. * Không tạo nên những trật tự khó đọc. Chẳng hạn: sửa chữa dễ đọc hơn chữa sửa.

2.2 Từ ghép chính phụ: Là những từ ghép mà ở đó có ít nhất một thành tố cấu tạo nằm ở vị trí phụ thuộc vào một thành tố cấu tạo khác, tức trong kiểu từ ghép này thường có một yếu tố chính và một yếu tố phụ về mặt ngữ pháp. Loại này có những đặc điểm sau: A. – Xét về mặt ý nghĩa, nếu từ ghép đẳng lập có khuynh hướng gợi lên các sự vật, tính chất có ý nghĩa khái quát, tổng hợp, thì kiểu cấu tạo từ này có khuynh hướng nêu lên các sự vật theo mang ý nghĩa cụ thể. B. – Trong từ ghép chính phụ, yếu tố chính thường giữ vai trò chỉ loại sự vật, đặc trưng hoặc hoạt động lớn, yếu tố phụ tường được dùng để cụ thể hóa loại sự vật, hoạt động hoặc đặc trưng đó. C. – Căn cứ vào vai trò của các thành tố trong việc tạo nghĩa, có thể chia từ ghép chính phụ thành hai tiểu loại: a. + Từ ghép chính phụ dị biệt: là từ ghép trong đó yếu tố phụ có tác dụng phân chia loại sự vật, hoạt động, đặc trưng lớn thành những loại sự vật , hoạt động, đặc trưng, cụ thể. Vì vậy có thể nói tác dụng của yếu tố phụ ở hiện tượng này là tác dụng phân loại. Thí dụ : • máy may, máy bay, máy bơm, máy nổ, máy tiện,… • làm việc, làm thợ , làm duyên, làm ruộng, làm dâu,… • vui tính, vui tai, vui mắt, vui miệng,… Chú ý, ở kiểu từ ghép này trật tự của các yếu tố trong từ ghép thuần Việt, hoặc Hán – Việt Việt hoá khác từ ghép Hán – Việt. ở hai trường hợp đầu, yếu tố chính thường đứng trước, ở trường hợp cuối, yếu tố phụ thường đứng trước. Ví dụ: • vùng biển, vùng trời, xe lửa, nhà thơ,… • hải phận, không phận, hỏa xa, thi sĩ,… b. + Từ ghép chính phụ sắc thái hóa: là những từ ghép trong đó thành tố phụ có tác bổ sung một sắc thái ý nghĩa nào đó khiến cho cả từ ghép này khác với thành tố chính khi nó đứng một mình như một từ rời, hoặc khiến cho từ ghép sắc thái hóa này khác với từ ghép sắc thái hóa khác về ý nghĩa. Thí dụ , so sánh xanh lè với xanh và xanh biếc, …

3. Từ láy: Cho đến nay, nhiều vấn đề của từ láy vẫn là những vấn đề còn để ngỏ.Về phương thức cấu tạo của từ láy, tồn tại hai ý kiến khác nhau: a.Từ láy là từ được hình thành do sự lặp lại của tiếng gốc có nghĩa ; b. Từ láy là từ được hình thành bằng cách ghép các tiếng dựa trên quan hệ ngữ âm giữa các thành tố. Theo ý kiến thứ nhất chỉ mới có thể lí giải được một số từ láy xác định được tiếng gốc, bên cạnh những từ ấy còn rất nhiều từ hiện không xác định được tiếng gốc (ví dụ: bâng khuâng, lẩm cẩm, bủn rủn, lã chã,…), hoặc những từ có dạng láy nhưng thực ra chúng vốn được tạo ra từ phương thức ghép ( ví dụ: hỏi han, chùa chiền, dông dài, tang tóc,…). Nhìn nhận từ láy theo ý kiến thứ hai lại không có tác dụng giúp ta thấy được những nét độc đáo về mặt ngữ nghĩa của kiểu cấu tạo từ này, không thấy được nét riêng của dân tộc ta trong việc sáng tạo những từ ngữ mới nhằm định danh sự vật mới một cách tiết kiệm mà lại có khả năng miêu tả sinh động, biểu cảm nhất. Có thể nói ý kiến thứ nhất đã nêu ra được những từ láy chân chính trong tiếng Việt. Tuy nhiên cần nhận thức được rằng ngôn ngữ không đứng yên mà luôn vận động, thay đổi theo sự phát triển của xã hội. Trong quá trình đó, những từ ghép có dạng láy và những từ láy chân chính đã hòa lẫn vào nhau mà ngay cả những nhà ngôn ngữ học cũng khó phát hiện và phân biệt được chúng trong nhiều trường hợp. Gần đây trong nhiều bài viết, các tác giả đã khôi phục được nghĩa của nhiều từ ghép có dạng láy bị mất nghĩa. Dẫu sao những từ này hiện nay cũng đã mang nhiều đặc điểm của từ láy ( về mặt ngữ nghĩa cũng như ngữ âm). Trong khi chờ đợi những cứ liệu lịch sử đầy đủ hơn nữa, có thể xem chúng là từ láy. Do vậy, đứng tên quan điểm đồng đại có thể nói từ láy là những từ gồm nhiều tiếng, giữa các tiếng có quan hệ ngữ âm có tác dụng tạo nghĩa.

3.1. Ðặc điểm của từ láy: A. – Giữa các tiếng trong từ láy có quan hệ với nhau về mặt ngữ âm, biểu hiện ở một trong các dạng sau : + Hoặc giống nhau ở phần phụ âm đầu. Thí dụ: vắng vẻ, vui vẻ,… + Hoặc giống nhau ở phần vần. Thí dụ: co ro, lác đác, lung túng,… + Hoặc giống nhau ở cả phần phụ âm đầu lẫn phần vần. Thí dụ: đo đỏ, hao hao,… + Riêng thanh điệu, ở từ láy đôi thường tuân theo quy tắc biến thanh sau: Cao _ / ? Thấp . ~ B. – Mối quan hệ về mặt ngữ âm trong từ láy tạo nên sự hòa phối ngữ âm có tác dụng biểu trưng hóa ( Hoàng Văn Hành), tức là tạo ra một thứ ý nghĩa biểu trưng, ý nghĩa ấn tượng mà người bản ngữ tỏ ra nhạy cảm với nó hơn so với người không phải thuộc bản ngữ. Ðó là lí do giải thích vì sao trong tiếng Việt tồn tại nhiều từ láy rất khó lòng giải nghĩa, nhưng người bản ngữ nói chung vẫn cảm nhận được cái hay, vẫn dùng đúng và hiểu đúng, nhưng khó có thể giải thích tính đúng, tính hay đó cho người ngoại quốc học tiếng Việt. Chính vì vậy ở những từ ghép có các thành tố còn rõ nghĩa và có hiện tượng lặp âm ngẫu nhiên như tươi tốt, nam nữ, mặt mũi, hầm hố,…nhưng người bản ngữ không hề nghĩ đến chúng như là từ láy. ở đây ý nghĩa của từng thành tố trong từ còn quá rõ, chúng đã cản trở việc tạo ra một thứ ý nghĩa vốn mơ hồ, yếu ớt, mặc dù khá ổn định. Và ngược lại, khi trong từ ghép đẳng lập có xuất hiện yếu tố mờ nghĩa, người ta dễ cảm thụ chúng như là từ láy. Ðó là lí do giải thích tại sao những từ chùa chiền, hỏi han, đất đai, chim chóc, tuổi tác được nhiều người lĩnh hội như là từ láy. C. – Từ đó dẫn đến đặc điểm thứ ba, trong từ láy phải có ít nhất một yếu tố không độc (mờ nghĩa hay mất nghĩa). Như vậy, từ láy trong tiếng Việt có thể xảy ra hai trường hợp: a – Từ láy có một yếu tố độc lập ( hay tiếng gốc) và một yếu tố không độc lập ( hay tiếng láy); b – Từ láy có cả hai yếu tố đều không độc lập ( hay từ láy không có tiếng gốc).

3.2 . Phân loại từ láy: Kết hợp tiêu chí số lượng tiếng với các bộ phận giống nhau trong từ, có thể phân từ láy thành các loại sau: A. – Từ láy đôi là từ láy gồm có 2 tiếng. Có các dạng cấu tạo láy đôi sau: a. + Từ láy bộ phận: Từ giống nhau ở phần vần hoặc phụ âm đầu. b. + Từ láy hoàn toàn: Ngoại trừ những từ láy bộ phận, còn lại là các từ láy hoàn toàn. Cụ thể gồm các dạng sau: * Giống cả phần vần, phụ âm đầu và thanh điệu. Thí dụ: đùng đùng, lù lù, vàng vàng,… * Giống phần vần, phụ âm đầu, khác nhau thanh điệu. Thí dụ: đu đủ, cỏn con, đo đỏ, tím tím,… * Giống nhau phụ âm đầu và âm chính, khác nhau ở thanh điệu và phụ âm cuối do sự chi phối của quy luật dị hóa. Thí dụ: đèm đẹp, bàng bạc,sành sạch, tôn tốt,… Dạng biến đổi này xảy ra trong các trường hợp các tiếng gốc có phụ âm cuối là -p, -t, -k ( thể hiện trên chữ viết là c và ch ). Trong trường hợp này, thanh điệu cũng biến đổi theo quy luật vừa nói trên. Còn phụ âm cuối biến đổi theo quy luật là tiếng gốc tận cùng bằng các phụ âm tắc-vô thanh sẽ được chuyển thành các phụ âm mũi-hữu thanh ở tiếng láy. Cụ thể: Tiếng gốc Tiếng láy ( Âm tắc, vô thanh) ( Âm mũi – hữu thanh) ăm ấp – p – m phơn phớt – t – n bàng bạc, sành sạch – k – ng ( thể hiện trên chữ ng và nh) B. – Từ láy ba và láy tư: Từ láy ba: chủ yếu dựa trên cơ chế láy hoàn toàn. Từ láy ba có kiểu phối thanh thường gặp là: -Tiếng thứ hai mang thanh bằng (thường xuất hiện thanh huyền hơn thanh ngang). -Tiếng thứ nhất và tiếng thứ ba đối lập nhau về bằng / trắc hoặc về âm vực cao / thấp. Ví dụ cho trường hợp thứ nhất: dửng dừng dưng, cỏn còn con, sạch sành sanh, khỏe khòe khoe,… Ví dụ cho trường hợp thứ hai: khít khìn khịt, sát sàn sạt, xốp xồm xộp,… Từ láy ba dạng láy bộ phận chiếm số lượng rất ít. Ví dụ: tơ lơ mơ, tù lù mù,… Từ láy tư: Phần lớn từ láy dựa trên cơ sở từ láy đôi, một số ít có phần gốc là từ ghép. + Láy bộ phận kết hợp với đổi vần -a, -à hay -ơ. Ví dụ: ấm ớ — ấm a ấm ớ hì hục — hì hà hì hục sớn sát — sớn sơ sớn sát + Láy toàn bộ kết hợp với biến thanh. Ví dụ: bồi hồi — bổi hổi bồi hồi lảm nhảm — lảm nhảm làm nhàm + Láy bộ phận kết hợp với tách, xen . Ví dụ: thơ thẩn — lơ thơ lẩn thẩn nhồm nhoàm — lồm nhồm loàm nhoàm + Láy toàn bộ kết hợp với tách, xen Ví dụ: hăm hở — hăm hăm hở hở vội vàng — vội vội vàng vàng

3 3. ý nghĩa của từ láy. ở đây, ta chủ yếu bàn về từ láy đôi. Xét tác dụng của các tiếng tham gia cấu tạo nghĩa của từ láy, có thể chia từ láy nói chung thành 3 nhóm : A. Từ láy phỏng thanh: là từ láy trong đó không xác định được tiếng gốc, các tiếng được hình thành và được ghép lại dựa vào sự mô phỏng âm thanh của các sự sật, hiện tượng trong thực tế. Cụ thể, đấy có thể là sự nhại lại âm thanh của đối tượng. Ví dụ: oa oa, gâu gâu, đùng đùng,…; hay dựa vào mô phỏng âm thanh để định danh cho đối tượng. Thí dụ: con bìm bịp, xe cút kít, chim tu hú,… B. Từ láy sắc thái hóa: là những từ mà trong đó có một yếu tố gốc và một hoặc hơn một yếu tố láy . Yếu tố gốc chi phối nghĩa của toàn bộ từ láy, yếu tố còn lại có tác dụng bổ sung một sắc thái nghĩa nào đó khiến cho từ láy khác với phần gốc khi nó đứng một mình và khác với từ láy khác có cùng yếu tố gốc. Ví dụ, so sánh bối rối với rối rắc rối, rối ren, rối rít; dễ dãi với dễ, dễ dàng; xanh xanh với xanh và xanh xao,…Xét về mặt phạm vi biểu vật của từ láy so với tiếng gốc, cần phân biệt hai trường hợp: thứ nhất là từ láy phi cá thể hóa – những từ mà ý nghĩa biểu thị phạm vi sự vật rộng hơn so với tiếng gốc; thứ hai là từ láy cụ thể hóa những từ mà ý nghĩa biểu thị phạm vi sự vật hẹp hơn so với tiếng gốc. Ví dụ cho trường hợp thứ nhất như: chim chóc, mùa màng, hội hè,…Ví dụ cho trường hợp thứ hai như: dễ dàng, dễ dãi, bối rối, rắc rối, rối rít, xanh xanh, xanh xao,… Có thể nêu ra một số mô hình ngữ nghĩa tương đối thuần nhất của một số kiểu láy như sau: – Kiểu từ láy toàn bộ: + Tiếng gốc gốc tính từ, kiểu L( láy).G( gốc). * L. có thanh bằng: thường diễn đạt tính chất hoặc đặc điểm mang ý nghĩa giảm nhẹ. Ví dụ: kha khá, đo đỏ, tôn tốt,… * L. có thanh trắc: thường diễn đạt tính chất hoặc đặc điểm có cường độ gia tăng. Ví dụ: cỏn con, tẻo teo,… + Tiếng gốc gốc động từ: thường diễn đạt các hành động lặp đi lặp lại một cách đều đặn và kèm với quá trình lặp lại đó, cường độ của hành động mang tính chất giảm nhẹ. Ví dụ: gật gật, lắc lắc, rung rung,… + Tiếng gốc gốc danh từ: thường diễn tả sự lặp đi lặp lại của các sự kiện, hiện tượng. Ví dụ: ngày ngày, người người, nhà nhà,… – Kiểu láy âm: * Kiểu G. L( -ăn): thường diễn tả tính chất hoặc đặc điểm đạt chuẩn mực. Ví dụ: đầy đặn, vuông vắn, ngay ngắn, thẳng thắn,… * Kiểu L (-âp). G ( gốc động từ) : thường diễn tả hành động không ổn định tại chỗ hoặc diễn ra theo tình thế hiện ra biến mất. Ví dụ: lấp ló, thập thò, nhấp nháy,… C. Từ láy âm cách điệu: là từ láy không chứa bộ phận còn đủ rõ nghĩa từ vựng, hoặc vẫn có thể chứng minh nghĩa của một bộ phận nào đó nhưng nó không còn tác dụng làm cơ sở nghĩa của toàn từ nữa. Ví dụ: bâng khuâng, linh tinh, thình lình,…Lọai này hiện chiếm một số lượng khá lớn trong tiếng Việt. Theo Diệp Quang Ban, đây là kiểu láy thuần khiết nhất, tiêu biểu cho toàn bộ từ láy – một kiểu cấu tạo từ lấy sự hòa phối ngữ âm tạo ý nghĩa biểu trưng làm cơ sở. Về mô hình ngữ nghĩa của kiểu từ láy này vẫn là một vấn đề còn đang để ngỏ. Phi Tuyết Hinh trong bài Từ láy không rõ thành tố gốc và vấn đề biểu trưng ngữ âm trong từ biểu tượng tiếng Việt đã cố gắng mô hình hóa nghĩa của kiểu từ này dựa vào các đặc điểm cấu âm – âm học của chúng.

4. Từ ngẫu hợp : Ngoại trừ các trường hợp trên, còn lại là các từ ngẫu hợp. Ðấy là trừơng hợp mà giữa các tiếng không có quan hệ ngữ âm hay ngữ nghĩa. Thí dụ: cà phê, a xít, a pa tít,…cổ hũ, mè nheo, ba láp, ba hoa, bồ hóng,… • Chú ý: 1. Hiện tượng chuyển di kiểu cẩu tạo từ trong tiếng Việt: Không kể từ đơn và từ ngẫu hợp, tiếng Việt có 3 kiểu cấu tạo từ cơ bản cùng với các kiểu nhỏ là: – Từ ghép đẳng lập: gộp nghĩa, hợp nghĩa, đơn nghĩa. – Từ ghép chính phụ: dị biệt, sắc thái hoá. – Từ láy: phỏng thanh, sắc thái hóa, cách điệu. Xét các đơn vị trên trục đồng đại hay lịch đại, ở bình diện ngôn ngữ hay lời nói, việc nhận thức về kiểu cấu tạo lớn nhỏ của chúng có thể di chuyển khá phức tạp, làm cho con đường phân giới giữa chúng có thể bị nhòe đi. Trong những trường hợp đó, nếu thiên về mặt này thì từ đang xét được xếp vào kiểu cấu tạo này, nhưng nếu thiên về mặt khác thì nó thuộc kiểu cấu tạo khác. Chẳng hạn từ chùa chiền, đất đai, hỏi han, xét về mặt lịch sử chúng là từ ghép đẳng lập, tuy nhiên do sự tác động của phương thức cấu tạo từ và mô hình ngữ nghĩa ( nghĩa khái quát của A+B = A hoặc B) đã làm cho nghĩa của một trong hai yếu tố bị mờ nghĩa. Ngoài ra do sự trùng hợp ngẫu nghiên về mặt ngữ âm đã làm cho người bản ngữ hiện đại nhận diện chúng như là những từ láy. Xuất phát từ đặc điểm vừa nêu, trong tiếng Việt ngày nay tồn tại nhiều từ có thể có hai hướng nhìn nhận như học hành, hình hài, nhăn nheo, chăm chú, đền đài,…Như vậy, để biện luận kiểu cấu tạo của một từ, cần dựa vào một tiêu chí rõ ràng, dứt khoát. Trong khi chờ đợi những phát hiện mới mẻ hơn nữa của ngôn ngữ học lịch sử, ta có thể dựa vào tiêu chí đồng đại để xác định kiểu cấu tạo của từ.

Việc nhận thức các tiểu loại trong từ ghép đẳng lập cũng không nhất thành bất biến nếu xét từ ở bình diện ngôn ngữ hay lời nói. Trong sử dụng có thể xảy ra hiện tượng chuyển di từ tiểu loại này sang tiểu loại khác đối với những từ cụ thể. Ví dụ: – Cửa hàng ăn uống ( gộp nghĩa); ở đây ăn uống khá thật ( rất có thể là đơn nghĩa, chỉ nói về ăn đối với các nhà ăn tập thể). – Cơm nước đã sẵn sàng ( gộp nghĩa); cơm nước chán quá ( rất có thể đơn nghĩa). – Ăn ở dơ dáy ( gộp nghĩa); ăn ở với nhau được hai mụn con ( chỉ sự chung sống với nhau ), ăn ở chí tình sự ( chỉ sự cư xử với nhau trong xã hội). Hai trường hợp sau này chúng được chuyển nghĩa trên cơ sở nghĩa thứ nhất. Do đó muốn xác định được kiểu cấu tạo của chúng ta phải dựa vào ngữ cảnh cụ thể và biện luận rõ ràng. 2. Các tiêu chí xác định các kiểu cấu tạo từ trong tiếng Việt. Như ta đã biết, vốn từ tiếng Việt vô cùng phong phú, mỗi từ đều được cấu tạo theo một phương thức nhất định và mang một ý nghĩa nhất định. Các kiểu cấu tạo từ giữ vai trò quan trọng trong việc tạo nên nội dung ý nghĩa của từ. Chính vì vậy, trong chương trình Tiếng Việt ở bậc phổ thông cơ sở và trung học, nội dung xác định các kiểu cấu tạo từ rất được những nhà giáo dục quan tâm. Tuy nhiên ở các cấp học này vấn đề tiêu chí xác định các kiểu cấu tạo từ không phải đã sáng rõ, đặc biệt là ranh giới giữa từ láy và từ ghép. Ðể có thể xác định các kiểu cấu tạo từ tiếng Việt một cách nhất quán, cần dựa trên những tiêu chí rõ ràng. Dựa vào những vấn đề có tính chất lí thuyết về các kiểu cấu tạo từ tiếng Việt đã nêu, ta có thể nêu lên và áp dụng một cách tuần tự các tiêu chí xác định các kiểu cấu tạo từ tiếng Việt sau dây: – Về góc nhìn, trong khi chờ đợi những cứ liệu lịch sử đủ rõ, ta có thể xét từ tiếng Việt dựa trên quan điểm đồng đại, tức dựa vào sự nhận thức chung của người bản ngữ đương đại về nghĩa của các yếu tố cấu tạo từ. – Dựa vào số lượng tiếng trong từ. Nếu từ có một tiếng ( dĩ nhiên là tiếng độc lập) thì đó là từ đơn. Nếu từ có hơn một tiếng thì đó là từ phức. – ở những từ phức, để xác định cụ thể các kiểu cấu tạo từ, ta lại tiếp tục dựa vào quan hệ giữa các thành tố. + Nếu giữa các thành tố trong từ phức có quan hệ với nhau về mặt ngữ âm, đồng thời trong đó có yếu tố không độc lập và không mang nghĩa thực thì đó là từ láy ( Ví dụ: vắng vẻ, dễ dàng, sạch sẽ,…). Tiêu chí này sẽ loại trừ các trường hợp các từ ghép có quan hệ ngẫu nhiên về mặt ngữ âm ( như hầm hố, máu mủ, tốt tươi,…). ở những từ láy ta lại tiếp tục dựa vào số lượng tiếng, dựa vào các bộ phận giống nhau trong từ để xác định các từ láy đôi, láy ba, các từ láy bộ phận hay hoàn toàn, láy âm hay láy vần. + Nếu giữa các thành tố trong từ phức có quan hệ với nhau về mật ngữ nghĩa thì đó là từ ghép. ở từ ghép, ta lại tiếp tục dựa vào các mô hình ngữ nghĩa cụ thể của từng từ để xác định các kiểu cấu tạo cụ thể. Nếu một tổ hợp tiếng gợi lên các sự vật mang ý nghĩa khái quát, tổng loại thì đó là từ ghép đẳng lập. Còn nếu một tổ hợp nêu lên một phạm vi sự vật mang ý nghĩa cụ thể thì đó là từ ghép chính- phụ. + Nếu giữa các thành tố không có quan hệ ngữ âm hoặc ngữ nghĩa thì đó là từ ngẫu hợp.

Nguồn: http://cadao.org/index.php?option=com_content&view=article&id=841:cac-kiu-cu-to-t-ting-vit&catid=63:th-ng&Itemid=91

Bình chọn

Chia sẻ:

Facebook

Twitter

Thư điện tử

Tumblr

Like this:

Số lượt thích

Đang tải…