Vai Trò Của Lợi Ích Kinh Tế / Top 6 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Nhatngukohi.edu.vn

Vai Trò Của Hoạt Động Kinh Doanh Quốc Tế

Kết quả

Vai trò của hoạt động kinh doanh quốc tế:

Trước hết, kinh doanh quốc tế giúp cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế thỏa mãn nhu cầu và lợi ích của họ về trao đổi sản phẩm, về vốn đầu tư, về công nghệ tiên tiến.

Kinh doanh quốc tế giúp cho các quốc gia tham gia sâu rộng vào quá trình liên kết kinh tế, phân công lao động xã hội, hội nhập vào thị trường toàn cầu. Thị trường thế giới có vai trò ngày càng quan trọng đối với sự phát triển các quốc gia. Hoạt động kinh doanh quốc tế tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia chủ động và tích cực vào sự phân công lao động quốc tế và sự trao đổi mậu dịch quốc tế làm cho nền kinh tế quốc gia trở thành một hệ thống mở, tạo cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, biến nền kinh tế thế giới thành nơi cung cấp các yếu tố đầu vào và tiêu thụ các yếu tố đầu ra cho nền kinh tế quốc gia trong hệ thống kinh tế quốc tế.

Đồng thời, tham gia vào thị trường thế giới còn giúp cho các doanh nghiệp khai thác triệt để các lợi thế so sánh của mỗi quốc gia, đạt quy mô tối ưu cho mỗi ngành sản xuất, tạo điều kiện xây dựng các ngành kinh tế mũi nhọn, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và hạ giá thành, thúc đẩy việc khai thác các nhân tố tăng trưởng theo chiều sâu, trao đổi và ứng dụng nhanh chóng các công nghệ mới, thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, nâng cao tốc độ tăng trưởng và hiệu quả của nền kinh tế quốc dân.

Hoạt động kinh doanh quốc tế được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau như thông qua các lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá, các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh quốc tế tăng thu ngoại tệ để tăng nguồn vốn dự trữ, đẩy mạnh việc thu hút đầu tư trong nước; bằng hình thức hợp tác đầu tư, thu hút vốn đầu tư nước ngoài để đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế; thông qua các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ như du lịch, kiều hối để tăng thêm nguồn thu bằng ngoại tệ thông qua lượng khách du lịch vào thăm quan; thông qua các nguồn vốn vay từ các nước, các tổ chức tín dụng, ngân hàng trên thế giới để bổ sung nguồn vốn đầu tư trong nước trong khi nguồn vốn tích lũy từ nội bộ của chúng ta còn thấp; tăng thêm nguồn vốn bằng ngoại tệ bằng cách xuất khẩu lao động và chuyên gia cho các nước thiếu lao động, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên, tạo thêm việc làm, tăng thêm nguồn thu ngoại tệ cho nền kinh tế.

Mở rộng các hoạt động kinh doanh quốc tế, tăng cường hợp tác kinh tế, khoa học và chuyển giao công nghệ, giúp cho các nước có nền kinh tế kém phát triển có cơ hội cải tiến lại cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tạo cơ hội cho việc phân phối các nguồn lực trong nước và thu hút các nguồn lực bên ngoài vào việc phát triển các lĩnh vực, các ngành của nền kinh tế quốc dân một cách có hiệu quả, khắc phục tình trạng thiếu các nguồn lực cho sự phát triển đất nước như vốn, nhân lực có trình độ cao, công nghệ hiện đại, đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước vươn ra thị trường thế giới. Thông qua hoạt động kinh doanh quốc tế, phân công lao động quốc tế giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài được đẩy mạnh, đảm bảo đầu vào đầu ra cho các doanh nghiệp trong nước một cách ổn định và phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế đất nước, tạo điều kiện cho việc hình thành những tập đoàn kinh tế mạnh, đủ sức cạnh tranh và hội nhập kinh tế thế giới và khu vực.

Nguồn: chúng tôi (Biên tập và hệ thống hóa)

Vài Suy Nghĩ Về Vai Trò Của Kinh Tế Nhà Nước

Kinh tế Nhà nước (KTNN) tại Việt Nam đã có nhiều đóng góp cho xã hội trong những năm qua. Tuy vậy, cũng có nhiều vấn đề cần được đặt ra khi các mục tiêu về hiệu quả và năng suất, về bảo toàn vốn chủ sở hữu không đạt được.

Kinh tế Nhà nước – “vai chính” trên “sân khấu kinh tế”

Trước tiên, cần làm rõ vai trò chủ đạo hay mục tiêu chiến lược của KTNN, nhằm tổ chức lại KTNN thành hệ thống có mục tiêu phù hợp để đạt hiệu quả.

Ở đây, KTNN được hiểu là tất cả các tổ chức kinh tế trong đó nhà nước làm chủ đại diện toàn bộ hoặc phần lớn vốn sở hữu, giữ quyền thành lập và điều hành hoạt động. Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) và nhiều đơn vị sự nghiệp khác là các tổ chức điển hình của KTNN.

Về mặt lý thuyết, vai trò chủ đạo hay “vai chính” trên “sân khấu kinh tế” có thể là một hoặc kết hợp một số vị trí sau:

1. Chủ đạo về vốn sở hữu: khi vốn sở hữu trong toàn bộ nền kinh tế thuộc về một đối tượng nào đó đạt trên 50% hoặc ít hơn 50% nhưng chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu vốn phân theo chủ sở hữu, thì đối tượng đó đóng vai trò chủ đạo về vốn và thường chi phối mọi hoạt động.

Vốn sở hữu có thể tăng lên hoặc giảm xuống dẫn đến vai trò chủ đạo có thể thay đổi.

2. Chủ đạo về ngành kinh tế: khi một hoặc vài ngành kinh tế quan trọng thuộc về hoặc chịu sự chi phối của một đối tượng, thường có sự sở hữu chính về vốn. Vai trò chủ đạo có thể ở khâu sản xuất hoặc khâu phân phối hoặc cả hai.

Chủ đạo về ngành thường dẫn đến độc quyền và nhiều quốc gia có luật để chống hoặc hạn chế sự độc quyền nhằm đảm bảo lợi ích chung cho toàn xã hội.

3. Chủ đạo về hiệu quả sử dụng vốn: hiệu quả là yếu tố khiến cho vốn ngày càng tăng lên và về lâu dài sẽ chi phối ngành hoặc toàn bộ nền kinh tế.

Vị trí chủ đạo về hiệu quả sử dụng vốn có tính chiến lược và sẽ giành chiến thắng chung cuộc khi xét tới quá trình lịch sử của ngành hoặc nền kinh tế.

4. Chủ đạo về quy mô GDP tạo ra: giá trị sản phẩm tạo ra lớn nhất được đo lường bằng doanh thu. Vai trò chủ đạo này thực ra là kết quả của việc nắm giữ được vị trí 1, 2 hoặc 3; hoặc sự kết hợp giữa các vị trí này.

5. Chủ đạo về an sinh xã hội và lợi ích cộng đồng: vai trò chính trong việc cung cấp sản phẩm (hàng hóa và dịch vụ) cơ bản và giá rẻ cho người dân; hoặc duy trì hoạt động kinh tế phi lợi nhuận vì lợi ích cộng đồng, dân tộc ít người…

6. Chủ đạo về khoa học kỹ thuật và nghiên cứu: vai trò tiên phong trong phát minh sáng chế, ứng dụng khoa học công nghệ và tạo sản phẩm mới.

Ngoài ra, vai trò chủ đạo có thể về việc làm – tức có lực lượng lao động lớn nhất; về thu nhập tạo ra… Những vai trò này có thể trùng lặp một phần hoặc toàn bộ với những vị trí ở trên.

Để nắm vai trò chủ đạo, KTNN phải có được một hoặc kết hợp một số vị trí trên.

Vì sao KTNN không tròn “vai chính”?

Trước đây, vai trò chủ đạo của KTNN là về vốn sở hữu và kéo theo là chủ đạo về ngành và quy mô GDP thông qua việc xác lập sở hữu nhà nước với đa số nguồn lực sản xuất chính.

Thực tiễn cũng đã chứng minh KTNN không có được vai trò chủ đạo về hiệu quả với bằng chứng rõ nhất là trong thời gian dài không tạo ra khối lượng sản phẩm đủ để đáp ứng nhu cầu xã hội và tương xứng với lượng vốn sở hữu. Điển hình nhất là ngành nông nghiệp trong những năm cuối thập niên 70 và đầu thập niên 80. Vì sao KTNN không thể chủ đạo được về hiệu quả?

Thực tế cho thấy năng suất lao động và hiệu quả quản lý trong KTNN không cao do lợi ích cá nhân đan xen và lấn át lợi ích chung, không rõ đối tượng thụ hưởng, dẫn đến vô hiệu hóa cơ chế giám sát.

Không có cạnh tranh cũng khiến cho năng suất, chất lượng lao động không thể cao hơn mức trung bình. Cơ chế “thi đua” thay thế cho cạnh tranh cũng đã chứng tỏ sự bất cập.

Chủ đạo về ngành kinh tế thường dẫn đến hình thành độc quyền ngành, lợi ích ngành và lợi ích nhóm, không có cạnh tranh nên hiệu quả thấp.

Nếu KTNN nắm độc quyền ngành thì ngoài những khiếm khuyết của mô hình độc quyền, còn có thêm yếu tố kém hiệu quả đặc trưng của KTNN như đã phân tích và như vậy, rất khó duy trì được cơ chế giám sát để vừa loại trừ được lợi ích nhóm, vừa nâng cao hiệu quả ngành lẫn hiệu quả xã hội.

Với những quy định chặt chẽ và chậm thay đổi, KTNN cũng rất khó dẫn đầu trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ để tạo sản phẩm mới mà bản chất là tạo ra sự thay đổi.

Thực tế cũng cho thấy chưa nước nào có KTNN nắm được vai trò chủ đạo trong lĩnh vực này. Do vậy, vai trò chủ đạo của KTNN có thể tập trung vào các vị trí chủ đạo về an sinh xã hội và lợi ích cộng đồng và chủ đạo về quốc phòng, an ninh. Những vị trí này ít chịu sự cạnh tranh, hiệu quả về kinh tế không phải là quan trọng hàng đầu.

Nói cách khác, KTNN đóng vai “chính diện” và “gương mẫu” để làm đối trọng và dẫn dắt những thành phần kinh tế khác đi theo quỹ đạo chính là phục vụ lợi ích chung cho số đông và cho toàn xã hội, khắc phục được một khiếm khuyết chính của kinh tế tư bản chủ nghĩa là chỉ đáp ứng nhu cầu của người có tiền và bỏ qua nhu cầu của người nghèo hoặc những đối tượng thiệt thòi khác, chạy theo hiệu quả kinh tế là chính.

Nên chăng xem đây là vai trò chủ đạo và nhiệm vụ chiến lược của KTNN?

Nếu xét rộng ra, vai trò kinh tế chính của nhà nước là cung cấp hàng hóa và dịch vụ công căn bản như quốc phòng, thực thi pháp luật, quản lý kinh tế, giáo dục, bảo hiểm và y tế… với chi phí là tiền thuế mà người dân và doanh nghiệp phải trả.

Đây là loại hình dịch vụ lớn nhất về quy mô với mức “doanh thu” tức tiền thuế lên đến 15 – 35% GDP tuỳ theo quốc gia. Ở Việt Nam, mức thuế và phí cũng hơn 25% GDP tuỳ theo năm.

Như vậy về bản chất, chính nhà nước mới đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Thông qua các dịch vụ công và điều khiển nền kinh tế bằng chính sách, nhà nước (chứ không phải KTNN) định hướng và điều khiển các thành phần kinh tế khác, điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật và nguồn nhân lực…

Chỉ có nhà nước mới kịp thời và đủ sức bảo vệ lợi ích chung của xã hội trước sức ép độc quyền và lũng đoạn của các tập đoàn tư bản đối với thị trường trong nước.

Nói cách khác, nên định vị lại KTNN giữ vai trò chủ đạo trong việc định hướng xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế thị trường. Bên cạnh đó, cần xem xét đến khả năng nâng cao vai trò chủ đạo của nhà nước trong nền kinh tế thị trường song song với việc thay đổi mục tiêu của KTNN nhằm nâng cao hiệu quả cho nền kinh tế.

Tại Sao Kinh Tế Nhà Nước Giữ Vai Trò Chủ Đạo

kinh tế nhà nước cần và có thể giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh của nước ta là đi lên chủ nghĩa xã hội, trong hơn 10 năm đổi mới nền kinh tế đất nước, vai trò chủ đạo dẫn dắt, điều tiết nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của kinh tế nhà.

Thời gian qua, trong khi kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ thì hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước nhìn chung vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém.

Thực tế này làm nảy sinh những ý kiến trái chiều về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, trong đó có những ý kiến cho rằng, kinh tế nhà nước không nên giữ vai trò chủ đạo.

‌Tại sao kinh tế nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo ở Việt Nam

Không thể phủ nhận sự phát triển của các nước tư bản đã mang lại nhiều kết quả tích cực, nhưng cùng với đó luôn tồn tại một số xu hướng khách quan sau:

Công bằng xã hội đã trở thành đòi hỏi tất yếu của chính bản thân sự phát triển kinh tế. Công bằng để phát triển và phát triển để thực hiện công bằng không chỉ là khẩu hiệu mang tính đạo đức mà còn là động lực mạnh mẽ, yếu tố nội sinh của sự phát triển kinh tế.

Tất nhiên, công bằng ở đây không phải theo nghĩa cào bằng, đánh đồng siêng năng với biếng nhác, tích cực với tiêu cực, làm ăn hiệu quả với kém cỏi,điều đó sẽ dẫn tới triệt tiêu động lực phấn đấu của con người.

– Cùng với tăng trưởng kinh tế là yêu cầu về tiến bộ xã hội. Tăng trưởng kinh tế mà đời sống tinh thần, đạo đức xuống cấp sẽ đe dọa ngay đến sự phát triển bền vững của kinh tế.

Yếu tố khách quan của cuộc sống đặt ra là tăng trưởng kinh tế phải đi liền với tiến bộ xã hội. Tiến bộ xã hội là kết quả nhưng đồng thời cũng là động lực, yếu tố nội tại của sự phát triển kinh tế.

Tăng trưởng kinh tế phải đi cùng với sự ổn định về chính trị và về xã hội. Chính sự ổn định trên các lĩnh vực này lại là tiền đề để phát triển kinh tế.

Phát triển kinh tế mà không bảo đảm các xu hướng phát triển này tất yếu sẽ dẫn đến đổ vỡ. Nhà nước tư sản với bản chất là đại diện và bảo vệ quyền lợi chủ yếu cho một nhóm người, mà trước hết là giới chủ sẽ không bao giờ bảo đảm được tuyệt đối sự phát triển của các xu hướng đó.

Để làm được điều này, nền kinh tế đó phải chịu sự chi phối của một nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Chỉ có nhà nước đó mới bảo đảm được lợi ích của đại đa số nhân dân lao động, mới định hướng vào sự phát triển của từng cá nhân, đồng thời là sự phát triển của tập thể, cộng đồng và xã hội.

Và, để bảo đảm được lợi ích của đại đa số nhân dân lao động, kinh tế nhà nước, chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện phải giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế đó.

Đây cũng thể hiện rõ bản chất, đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hoàn toàn khác với kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa, được xây dựng trên cơ sở sở hữu tư bản độc quyền.

Bên cạnh đó, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước còn có những ý nghĩa sau đối với kinh tế Việt Nam:

Thứ nhất, là đầu tàu, hướng dẫn, dẫn dắt các hình thức sở hữu khác trong việc phát triển các lĩnh vực đặc biệt, như các lĩnh vực cần nhiều vốn đầu tư, có hàm lượng khoa học cao, một số lĩnh vực đặc biệt mới hình thành.

Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngày càng xuất hiện nhu cầu hình thành một số lĩnh vực mới đòi hỏi vốn đầu tư lớn, công nghệ cao mà tự nó rất khó phát triển.

Trong điều kiện các quan hệ thị trường mới được phát triển, khu vực tư nhân còn nhỏ bé, chưa có khả năng đầu tư lớn, khu vực sở hữu nhà nước tất yếu phải đảm nhận vai trò đầu tàu, dẫn dắt trong những lĩnh vực mới này.

Khi thực hiện vai trò này, không có nghĩa là sở hữu nhà nước giữ vai trò thống trị độc quyền vĩnh viễn mà vai trò đầu tàu, dẫn dắt thể hiện ở chỗ, khi các hình thức sở hữu khác đủ sức tham gia và có khả năng tham gia có hiệu quả, nhà nước kịp thời rút vốn ra khỏi lĩnh vực đã đầu tư, để tiếp tục thực hiện vai trò của mình trong việc đầu tư vào những lĩnh vực mới khác.

Thứ hai, bảo đảm phát triển năng lực cạnh tranh của quốc gia. Do lịch sử phát triển, kinh tế nhà nước đã đảm nhận một loạt ngành cạnh tranh.

Khi khu vực tư nhân chưa kịp phát triển, Nhà nước phải trực tiếp tham gia và đầu tư phát triển, hỗ trợ các doanh nghiệp đầu đàn trong giai đoạn đầu.

Khi khu vực tư nhân lớn mạnh dần, kinh tế nhà nước dần dần rút hoặc chuyển đổi sở hữu và về lâu dài, kinh tế nhà nước có thể không cần giữ vai trò chủ đạo ở lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh.

Thứ ba, đối với an ninh quốc gia, kinh tế nhà nước thể hiện vai trò chủ đạo ở hai nội dung cơ bản sau:

2- Tham gia nắm giữ một số vị trí thiết yếu, quan trọng để giữ vững định hướng xã hội, làm đối trọng trong hội nhập kinh tế quốc tế, bán buôn lương thực, xăng dầu, sản xuất điện, khai thác khoáng sản quan trọng một số sản phẩm cơ khí, điện tử, công nghệ thông tin quan trọng; bảo trì đường sắt, sân bay.

3- về mặt xã hội, do bản chất về mặt sở hữu và mục đích hoạt động, kinh tế nhà nước có vai trò quan trọng trong gánh vác chức năng xã hội.

Vai trò này thể hiện ở chỗ, kinh tế nhà nước phải đảm nhận những ngành ở những địa bàn khó khăn có ý nghĩa chính trị – xã hội mà tư nhân không muốn đầu tư, thực hiện sự bảo đảm cân bằng về đầu tư phát triển theo vùng, miền, đảm nhận các ngành sản xuất hàng hóa công cộng thiết yếu, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, các chương trình xóa đói, giảm nghèo.

‌Vai trò của kinh tế nhà nước ở các nước tư bản phát triển

Ngay ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa, khu vực kinh tế nhà nước cũng có vai trò quan trọng và tùy theo chiến lược quản lý của từng quốc gia, khu vực này có phạm vi và tỷ trọng khác nhau.

Tuy nhiên, sự nhận thức về vị trí, vai trò của khu vực kinh tế nhà nước có những bước thăng trầm khác nhau. Vai trò của kinh tế nhà nước bắt đầu được coi trọng từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933, đặc biệt nhận thức về khu vực này rõ nhất vào giai đoạn từ thập niên 70 của thế kỷ XX – thời kỳ ảnh hưởng của các lý thuyết “Phúc lợi quốc gia”, “Nền kinh tế thị trường xã hội”…

Ở giai đoạn này, nhiều nước bên cạnh việc chấp nhận tăng cường trách nhiệm của nhà nước đối với xã hội và chủ trương đẩy mạnh sự can thiệp của nhà nước vào thị trường thông qua các hình thức và công cụ thông thường của nhà nước, ban hành pháp luật, điều tiết kinh tế, kiểm tra, kiểm soát, còn thông qua nhà nước trực tiếp sở hữu một khối lượng khổng lồ cơ sở vật chất, sử dụng tài chính, tác động vào những lĩnh vực dịch vụ mà trước đây do xã hội tự giải quyết theo cơ chế thị trường…

Về quy mô, trên thực tế ở các nước này, sở hữu nhà nước rất lớn, bao gồm 4 mảng chính:

1- Sở hữu nhà nước về đất đai, tài nguyên, hệ thống giao thông

2- Các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp hỗn hợp có cổ phần nhà nước chi phối

3- Tài chính nhà nước theo nghĩa rộng nó bao gồm toàn bộ phần thu nhập quốc dân huy động vào ngân sách nhà nước, còn theo nghĩa hẹp, nó chỉ bao gồm các chi tiêu có tính chất kinh tế để đầu tư phát triển hoặc chi tiêu cho các dịch vụ công cộng.

4- Các tổ chức cung ứng dịch vụ công cộng, như trường học, bệnh viện, thư viện, công trình thể thao, văn hóa…Nhiều nước có sử dụng khu vực tư nhân đầu tư vào kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức BOT nhưng sau thời hạn khai thác, các công trình này đều chuyển giao về sở hữu nhà nước.

Mặc dù Mỹ tự coi mình là nền kinh tế thị trường tự do, nhưng toàn bộ sở hữu nhà nước ở Mỹ vào cuối thập niên 80 chiếm 20% tổng tài sản quốc gia.

Tỷ trọng chi ngân sách của Chính phủ Mỹ trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nước này đã tăng từ 26,8% năm 1960 lên 41,3% năm 2010.

Giai đoạn khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu 2008 – 2009, Chính phủ Mỹ đã sử dụng công cụ kinh tế của mình bằng cách chi tới 700 tỷ USD để cứu vãn nền tài chính quốc gia thông qua mua lại các khoản nợ xấu của ngân hàng, kích thích tài chính, thúc đẩy tăng trưởng,…

Ở một số nước G7 khác, tỷ trọng sở hữu nhà nước còn cao hơn, đều ở mức khoảng 30% tổng tài sản quốc gia. Riêng về đất đai, quy mô sở hữu nhà nước ở các nước phương Tây là rất lớn.

Đặc biệt, kinh tế nhà nước ở các nước tư bản có vai trò quan trọng trong cung ứng dịch vụ công, giao thông, công viên, bảo đảm an ninh công cộng,

Chẳng hạn với nước Anh vốn được coi là nơi khai sinh của lý thuyết kinh tế thị trường tự do và là một trong những nơi đầu tiên chấp thuận cho tư nhân tham gia phát triển kết cấu hạ tầng công cộng.

Nhưng đến năm 2018, Chính phủ Anh đã quyết định dừng hẳn các dự án về kết cấu hạ tầng tư nhân hóa với lý do các dự án công có tư nhân tham gia tốn phí hơn so với các dự án công chỉ do nhà nước thực hiện.

Như vậy, có thể thấy, ngay ở các nước tư bản có nền kinh tế thị trường phát triển cao, kinh tế nhà nước nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng vẫn có vai trò rất quan trọng, là một trong những công cụ quản lý vĩ mô giúp khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường.

Mức độ, phạm vi khu vực kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước không cố định mà được xác lập trên cơ sở yêu cầu của việc phát triển kinh tế – xã hội.

alonhatro

Vai Trò Và Lợi Ích Của Khóa Học Quản Trị Kinh Doanh

Sự phát triển của đời sống xã hội và nền kinh tế đang đặt ra những đòi hỏi cao hơn đối với nguồn nhân lực của mình. Những người tài ngày nay không chỉ đơn thuần là biết chăm chăm mỗi chuyên môn của mình, mà còn cần trau dồi những kỹ năng quan trọng khác. Trong số đó, kỹ năng quản trị kinh doanh là một kỹ năng quan trọng đối với nhiều lĩnh vực hiện nay. Vậy quản trị kinh doanh có vai trò gì và tại sao nên tham gia khóa học quản trị kinh doanh?

Vai trò của quản trị kinh doanh

Ngày nay quản trị kinh doanh không còn là khái niệm xa lạ đối với xã hội, tuy nhiên vẫn còn nhiều người có những hiểu biết sai lầm về nó. Vẫn biết rằng quản trị kinh doanh trong một doanh nghiệp có vai trò là một nhà điều hành quản lý, vạch ra chiến lược phát triển và lãnh đạo một đội ngũ nhân viên đúng cách. Tuy nhiên, nếu xét theo nghĩa rộng thì kỹ năng quản trị kinh doanh là cái mà hầu như ai cũng cần có. Bởi các kỹ năng quản trị kinh doanh cho ta một tầm nhìn lớn, một kỹ năng lãnh đạo tốt, kỹ năng giao tiếp hiệu quả để tạo ra những hiệu quả hoạt động tối ưu cho một doanh nghiệp. Không phải ai học quản trị kinh doanh ra cũng làm giám đốc, nhưng học quản trị kinh doanh thì sẽ cho ta được một cái nhìn bao quát nhất về quản trị và cách thức hoạt động của doanh nghiệp, từ đó cũng tự biết cách quản trị chính bản thân mình.

Tại sao nên tham gia khóa học quản trị kinh doanh?

Để có được những kỹ năng bài bản như trên, không thể trong một sớm một chiều mà có ngay được. Đó nên là một quá trình học hỏi, tìm hiểu, đúc kết để tạo nên những kiến thức chắc chắn nhất. Mà những điều này thì khó có thể có được nếu bạn mãi đi tìm trong biển sách mênh mông hay trên những nguồn online không rõ tính chính xác. Do vậy, tham gia khóa học quản trị kinh doanh có thể là một điều đúng đắn và hiệu quả nhất mà bạn nên làm. Bởi với khóa học quản trị kinh doanh này, bạn sẽ được học toàn bộ những kỹ năng cần thiết mà một nhà quản trị cần có từ cơ bản đến nâng cao. Bạn sẽ được ở ra một chân trời mới, được thay đổi cách suy nghĩ, cách sống, cách làm việc.

Khóa học quản trị kinh doanh ở Edumall

Với mong muốn mang đến những giá trị hữu ích nhất cho người dùng, Edumall cung cấp khóa học quản trị kinh doanh được giảng dạy bởi những chuyên gia hàng đầu. Đây là khóa học online, do đó bạn có thể học với thời gian và địa điểm tùy quyết định, chỉ cần có thiết bị điện tử kết nối internet là được.