Trình Bày Lợi Ích Của Giun Đất / Top 11 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Nhatngukohi.edu.vn

Giá Trị Và Lợi Ích Của Giun Đất

Giun đất trên thế giới có tới gần 2.000 loài, ở Việt Nam có khoảng 170 loài. Tuy nhiên, chúng ta chỉ nên nuôi một số loài có những đặc điểm tốt như: Hàm lượng đạm cao, đẻ khoẻ, mau lớn v.v… Loài giun mà lâu nay chúng tôi đã giới thiệu cho cả nước tiến hành nuôi đó là loài giun quế hay còn gọi là giun đỏ, tên khoa học là Perionyx escavatus.

Giá trị kinh tế

So với các loài giun đất khác, giun quế nhỏ hơn nhiều. Cơ thể nó chỉ dài độ 10 – 12cm. Con to nhất thì thân của nó cũng xấp xỉ bằng cọng hoa đồng tiền. Tuy nhiên, chúng đẻ khoẻ và lớn nhanh như thổi. Chúng là loài giun ăn phân. Các loại phân chúng đều ăn. Ngon nhất đối vói chúng là phân trâu, phân bò. Mang tiếng là giun đất nhưng chúng có thể sống hoàn toàn trong phân mà không có một tý đất nào. Đây là đặc điểm quan trọng mà bà con ta phải nhớ để tổ chức nuôi chúng.

Giun đất là loài lưỡng tính, có nghĩa là ở con nào cũng có cả yếu tố đực và yếu tố cái. Rấc tiếc, tạo hoá lại quên cho chúng một đường dần từ chỗ yếu tố đực đến chỗ yếu tố cái. Vì vậy, muốn sinh sản được hai chú giun phải tìm tới nhau. Chúng đi ngược chiều rồi quấn lấy nhau. Lúc đó, yếu tố đực của con này sẽ chuyển cho con kia và ngược lại. Hai con nhả nhau ra và sẽ cùng đẻ. Trong tự nhiên, chúng ta thấy chúng chỉ đi tìm nhau vao đêm khuya. Vì sao vậy? Vì rằng, chúng chưa có phổi. Nó hô hấp qua da. Khô da là chúng chết. Do đó, nó chỉ có thể ngoi lên mặt đất khô khan để đi tìm “người tình” khi sương đã xuống. Lúc mặt trời nhô lên, chúng lại vội vã tìm đường chui xuống và biến mất, để lại những đường ngoằn ngoèo trên mặt đất. Nếu chúng ta tổ chức những chỗ luôn luôn ẩm và tối thì chúng có thể “yêu nhau” suốt ngày.

Làm đất tơi xốp

Nuôi giun quanh gốc chanh là bí quyết của triệu phú 8x Nguyễn Hữu Hà – người mang giống chanh tứ quý về trồng trên mảnh đất chiêm trũng Hưng Yên. Giun làm đất tơi xốp, hấp thu dinh dưỡng tốt hơn mà không cần hóa chất tăng trưởng.

Anh nuôi giun bằng cách cho ăn đậu tương. Nếu nghiền hạt đậu khô thành bột, rải quanh gốc cây, giun sẽ ăn hết 70% lượng đậu tương bón. Ngoài ra, có thể dùng cả cây đậu luộc lên rồi bón cho cây. Nhờ giun hỗ trợ đắc lực, mà vườn chanh 5,7ha cho tới 40 tấn quả, thu nhập trên 800 triệu mỗi năm.

Ủ phân hữu cơ

Để trồng tiêu không phân bón hóa học, nông dân xã Nâm N’Jang (huyện Đăk Song, tỉnh Đăk Nông) sử dụng giun trùn quế để sản xuất nguồn phân hữu cơ giàu dinh dưỡng tại chỗ. Lão nông Hà Văn Kuôn cho biết, phân bò từ các hộ chăn nuôi được gom lại, trở thành thức ăn cho trùn quế. Sau khoảng một tháng ủ thì bón cho cây tiêu.

So với loại phân hữu cơ thông thường, phân trùn quế chứa hàm lượng dinh dưỡng cao, thời gian phân hủy nhanh hơn. Nguồn phân bón này góp phần mang sản lượng 34.400 tấn mỗi năm về cho vùng hồ tiêu 27.500ha tại Đắk Song, đáp ứng nhu cầu trong nước và đạt tiêu chuẩn xuất khẩu đi Mỹ, Nhật. Ngoài tiêu Nâm N’Jang, nhiều vùng sản xuất rau, cà phê nơi đây cũng nuôi giun để tạo phân.

Nuôi lợn bằng giun

Lợn, gà, tôm ăn giun quế hiện là hướng đi được nhiều địa phương lựa chọn phát triển kinh tế. Hợp tác xã Long Thịnh (xóm Đồng Nội, xã Phúc Trìu, Thái Nguyên) là một trong những đơn vị sử dụng giun quế làm thức ăn cho vật nuôi.

Đàn lợn 50 con chăn nuôi trên diện tích rộng 1.000m2 được ăn đậu tương, ngô, cám với khoảng 0,2kg giun quế mỗi ngày. Lợn nuôi 8-2 tháng cho giá bán cao 90.000 đồng mỗi kg. Đến nay, hợp tác xã đã cung cấp khoảng 4 tấn thịt cho thị trường Thái Nguyên và Hà Nội.

Trùn quế cũng được chọn làm thức ăn cho gà, tôm tại Bạc Liêu. Nhiều hộ nông dân nuôi giun làm thức ăn cho tôm, giữ sạch môi trường ao nuôi.

Xử lý chất thải nông nghiệp

Khoảng 38,5% phát thải khí nhà kính xuất phát từ nông nghiệp, theo báo cáo của Bộ Tài nguyên Môi trường năm 2014. Có nhiều phương pháp xử lý chất thải hữu cơ trong trồng trọt và chăn nuôi như xây hầm bioga, sử dụng chế phẩm sinh học… Nhiều doanh nghiệp chăn nuôi và chế biến gia súc còn phải đầu tư hàng tỷ đồng cho hệ thống xử lý chất thải trước khi đưa ra môi trường.

Tại Mỹ, Tom Herlihy – CEO R.T.Solution Inc đã sử dụng 8 triệu con giun đất xử lý môi trường trong trang trại nuôi bò từ năm 2004, biến nguồn chất thải thành loại phân bón giàu dinh dưỡng. Nghiên cứu cho thấy, 1-2 lạng giun có thế xử lý tối đa khoảng 300kg rác thải. Trong 60 ngày, đội ngũ giun đã sản xuất ra 600 tấn phân hữu cơ cho nông nghiệp.

Tác Dụng Của Loài Giun Đất Trong Đất Nông Nghiệp

Con giun đất có răng không ? Chúng ta bắt giun cho gà ăn vì giun đục khoét rễ cây ?

Charles Darwin, ông tổ của thuyết tiến hoá có thể nói cho chúng ta biết từ năm 1881. Ông ta đã quan sát con giun rất kỹ và đã viết một cuốn sách với tựa đề “sự hình thành của đất đồng ruộng qua hoạt động của giun đất” Giun không có răng và không ăn rễ cây, chúng ta đã dư biết điều này, cũng như chúng ta cũng biết giun là một con sinh vật quan trọng cho đất mà ông trời đã chỉ cho chúng biết cách làm cho đất đai phì nhiêu, thế nhưng, chúng ta biết có bao nhiêu loại giun không và chúng ăn những gì ? Làm sao chúng có thể sống qua những mùa khô và làm sao để tự bảo vệ ? Nếu chúng ta đã biết điều này thì có lẽ không cần đọc tiếp nữa.

Không phải chỉ có ông Darwin nhận ra sự lợi ích của con giun. Trước đó, ông Aristoteles (384-322 trước Công Nguyên) đã tả chúng là bộ ruột của đất. Thời Ai cập giun được quí trọng đến nỗi chúng đã được phong thần thánh và Cleopatra (69-30 trướcCông Nguyên ) đã ra lệnh cấm không được đem giun ra khỏi đất nước Ai Cập. Vào thế kỷ 17 người ta gọi chúng là giun năng động, một từ dùng để diễn tả hoạt động của giun dưới mặt đất và tạo sự lợi ích cho đất.

Một câu nói của mục sư người anh Gilbert White ” không có những con giun mặt đất sẽ trở thành trơ trọc, không lên men và không sự sống.

Cũng khoảng trong thời gian đó vào thế kỷ 18 cũng có những quan điểm hoàn toàn khác về giun đất. Trong cuốn sách trồng vườn của ông J.W.Hönert có viết giun đất cần phải tiêu diệt vì chúng ăn rễ của các loại cây.

Từ thời thượng cổ cho đến thế kỷ 18/19 người ta dùng giun đất để chế thuốc chữa bệnh như thuốc chữa đau cổ, đau mắt, đau tai, đau bụng vân vân .. Trong thực tế, sau này người ta đã tìm ra chất giảm nhiệt từ giun đất và có thể chứng nhận trong các thí nghiệm với súc vật.

Vào thế kỷ 20 giun đất được nghiên cứu kỹ hơn. Vai trò của chúng được rao truyền rộng rãi qua Dr. H. Müller và H.P. Rusch.

Có hai loại giun đất mà tất cả chúng ta đều biết. Một loại là giun đêm, lớn khoảng 12 -30 cm (tên khoa học Lumbricus terrestris) và các loại giun sống dưới đất.

Trên thế giới có khoảng 3000 loại giun. Loại giun Châu Úc dài cỡ 2 mét có màu xanh lợt đến đốm vàng và sống trên cây; có loại nhỏ đến nỗi mắt thường nhìn rất khó thấy.

Chỉ rất ít loại giun gây sự chú ý của chúng ta. Một là loại giun đêm như đã nhắc đến bên trên. Chúng sống trong đồng cỏ, vườn tược và các vườn trái cây. Chúng đào đường hầm sâu đến 3 mét và bới đất rất khoẻ. Giun đêm là vì chúng chỉ lên trên vào ban đêm để kiếm ăn. Chúng có thể được nhận ra qua màu hơi đỏ ở nửa đoạn đầu và màu lợt lạt ở nửa đoạn sau thân thể.

Loại thứ hai đã nhắc đến là loại giun phân (Eisenia foetida)(foetidus = có mùi hôi thúi).Nhờ loại giun này cũng như những sinh vật khác mà đống phân xanh đã trở thành đất màu mỡ;

Loai giun phân có chiểu dài khoảng 4 – 12 cm và có màu đỏ đến đỏ hồng. Các vòng khoang có màu sáng đến hơi vàng. Loại có màu vàng đỏ thật đậm được gọi là giun cọp.

Trong đất chúng ta không tìm thấy loại giun phân này vì chúng sống lệ thuộc vào số lượng phân xanh.

Loại giun đồng (đồng cỏ)(Allolobophora caliginosa) với chiều dài khoảng 5 – 20 cm, không dài và không lớn như loại giun đêm. Nhưng con gium xam xám này chúng ta thường thấy trong lúc cày bừa. Loại này không bài tiết trên mặt đất mà thường là dưới mặt đất. Chúngkhông đào sâu như loại giun đêm, thường trong phạm vi rễ cây, nhưng chúng đảo đất nhiều hơn loại giun đêm.

Giun đỏ (Lumbricus rubellus), có màu đỏ thắm , mảnh khảnh và rất lẹ. Chúng phải lẹ vì chúng sống trên mặt đất bên dưới những chiếc lá để tránh những cuộc tấn công từ trên cao. Chúng là giống giun hạnh phúc vì,ăn nhiều , làm việc ít mà lúc nào cũng .. mi nhon.

Giống giun ruộng (Octolasion lacteum) có điểm đặc biệt là dấu chấm vàng ở đoạn sau của cơ thể. Chúng chui trong đất và ăn các loại vi sinh ở trong các lớp cát đá. Hoạt đông của giun ruộng làm cho các chất vô cơ ở sâu trong đất được chuyển lên phía trên.

Giun là sinh vật nhẵn và có nhiều chất nhờn. Chất nhờn tạo cho cơ thể của chúng giữ được độ ẩm và có thể kháng lại các chất độc. Với độ nhờn như vậy làm sao chúng có thể di chuyển mà không bị trượt ?

Ðể trả lời câu hỏi chúng ta phải bắt một con giun rồi dùng ngón tay sờ vào dưới bụng của chúng. Chúng ta sẽ thấy chúng có những sợi lông li ti ở dưới bụng. Những sợi lông này có thể thụt ra thụt vào được và nhờ vậy chúng có thể bám vào đấtdi chuyển mà không bị trượt. Các tế bào bắp thịt dọc và ngang tạo ra những động tác co dãn của cơ thể.

Ngoài ra ở đoạn đầu và đuôi của chúng có rất nhiều tế bào cảm nhận ánh sáng. Ánh sáng xanh (blue) kích thích dụ chúng đến,ánh sáng UV sẽ giết chúng. Vì vậy, nếu ban ngày chúng ta thấy con giun trên mặt đất, thì nên lấy đất đắp che chúng lại – một cử chỉ mà chúng ta mặc nợ chúng.

Một câu hỏi kế tiếp là: Chúng sinh sản như thế nào ? Chúng ta cũng biết giun là loài lưỡng tính. Trong mỗi con giun đều có bộ phân sinh dục đực và cái. Con giun đến thời kỳ sanh sản có thể nhận biết qua cục nổi u trên đoạn trước của cơ thể.

Khi giao hợp, phần nhiều là ở dưới mặt đất, hai con giun nằm ngược chiều nhau, đầu cặp với đuôi và đuôi cặp với đầu. Sau đó chúng bắt đầu trao đổi tinh trùng. Tinh trùng được chứa vào những túi chứa. Khi tách riêng ra mỗi con sẽ tự tạo một cái kén trong đó có chứa trứng và tinh trùng của giun bạn. Cái kén có hình dạng như trái chanh (tùy theo loại giun nó sẽ khác nhau ở hình dạng cũng như độ lớn nhỏ)được bao bọc bở nhiều lớp nhờn. Phần nhiều, kén lớn khoảng độ hột lúa mì và có chứa một phôi thai (giun phân có2-3 phôi thai) cũng như một số chất dinh dưỡng lỏng. Số lượng kén chênh lệch nhau trong khoảng từ 20-90 cái đối với giun đêm. Giun phân có khoảng 140 cái. Thời gian đến lúc kén nở ra kéo dài khoảng 7 đến 12 tuần. Những chú giun con, thưc ăn ngon của chuột chù, chim chóc, bọ, có thể sống đến hai tuổi trong thiên nhiên. Thế nhưng thông thường chúng không sống sót đến tuổi trưởng thành (tuần thứ 30-50). Trong phòng thí nghiệm có nhiều loại giun có thể sống đến 10 năm.

Trong mùa đông cũng như trong mùa hè khô những chú giun tự nhiên biến mất. Trong thời gian này chúng nằm cuộn mình lười biếngtrong hang mà chúng tự làm với chất nhờn của cơ thể. Vì là động vật máu lạnh và nhiệt độ cơ thể chịu ảnh hưởng bởi môi trường, chúng phải hạn chế hoạt động khi khí hậu bất lợi. Trọng lượng cơ thể của chúng trong mùa này có thể bị giảm đi đến hơn một nửa. Khi thời tiết thuận lợi trở lại chúng phải “tăng cân” trở lại và chỉ nghĩ đến ăn ăn và ăn chúng tôi đến cái chuyện “trai gái” chúng cũng không quan tâm; Tính theo tuổi thọ thì giun không sinh sản mạnh, là một điều mà chúng ta nên chú ý để bảo vệ chúng.

Ở đây chúng ta nên tìm lại một đoạn truyền thuyết cũ. Theo đó thì nếu chặt đôi con giun ra thì hai đọan bị chặt đó sẽbiến thành hai con giun; Tất cả chỉ là chuyện bịa đặt. Ai có thể ăn bằng đít chứ; Chỉ có nửa phần trên (đầu) là có thể sống và mọc ra lại, phần đuôi sẽ bị chết. Trong lúc đợi phần đuôi mọc ra, con giun sẽđi vào trạng thái dưỡng bệnh (nằm trên giường bệnh . Phần đuôi mới sẽ không mập như phần đầu cũ. Một con giun “tái tạo” rất dễ nhận ra. Cho dù có khả năng tái sinh nhưng những chú giun đó rất hiếm có. Ðiều dễ hiểu là khi bị thương vết thương sẽ bị nhiễm trùng, nhiễm nấm. Thêm vào đó chúng không thể chạy trốn được và thường là bị xơi tái ngaỵ

Chúng ta đã biết sơ về cách sinh sống của giun đất. Bây giờ chúng ta tìm hiểu tại sao chúng lại có lợi ích cho đất đai trồng trọt.

Giun đất là giống tạo đất. Tại những vùng đất có nhiều giun, chúng thải ra hàng trăm tấn phân mỗi năm trong diện tích một mẫu đất. Trong vòng 12 đến 15 năm chúng sẽ đảo lộn hoàn toàn 10 cm đất theo bề dày, tính ra là khoảng 1,5 triệu ký đất trong một mẫu.

Cần bao nhiêu con giun để có được năng xuất như vậy ? Số lượng lệ thuộc vào chất lương đất. 100 con giun cho một mét vuông đất là một tỷ lệ tốt. Những vùng đất thuận lợi có độ pH trung tính, xốp và nhiều phân hữu cơ có thể chứa đến 400 con trong một mét đất. Cứ tính một con giun nặng trung bình khoảng 2 gram và trên diện tích là một mẫu đất thuộc loại trung bình có chứa 1 triệu con, như vậy chúng ta có khoảng 2000 kg giun. Ðiều đó có nghĩa là số lượng lương thực dưới mặt đất có thể nuôi sống và tạo nhiều sinh khối hơn trên mặt đất. Trên mặt đất cứ một mẫu đồng cỏ chỉ đủ cho 2 đến 3 con bò , 1000 -1500 kg/ha.

Qua hoạt động đào bới cũng như ăn gặm giun tạo cho đất thoáng và tăng khả năng giữ nước cũng như khả năng thấm nước mưa. Nhờ thoáng khí, các vi sinh trong đất sẽ phát triển mạnh và tạo cho đất có hoạt đông sinh học cao.

Chất khoáng cứng như phân vô cơ trong lòng đất sau sẽ được chuyển đến rễ cây. Chất thải của giun chứa nhiều chất dinh dưỡng cho cây cỏ hơn đất chung quanh. Ðem phân tích, thì phân thải có chứa nhiều nitơ gấp 5 lần, nhiều phosphor gấp 7 lần, nhiều postassum gấp 11 lần cũng như nhiều Magnesium gấp 3 lần so với đất thường; Như vậy giun đóng một vai trò rất quan trọng trong viêc tạo chất dinh dưỡng cho cây trồng.

Khi giun ăn trong đất, các chất hữu cơ cũng như vô cơ được trộn đều trong bộ tiêu hoá của chúng. Qua đó đất có một hỗn hợp cân bằng giữa chất đất sét và chất mùn cũng như nước, không khí và chất dinh dưỡng.

Ngoài ra giun còn đóng một vai trò khác nữa trong lúc ăn. Giun là loại diệt vi sinh vật gây bệnh rất hữu hiệu. Khi ăn lá cây chúng ăn và tiêu hoá luôn những mầm nấm mốc . Phân của chúng là môi trường tốt để các loại vi sinh hữu ích phát triển. Các loại này tạo ra chất kháng sinh có thể ngăn chặn các loại vi sinh vât gây hại cho cây trồng.

Giun là bạn đồng hành có thể giúp chúng ta giữ đất đai được màu mỡ và từ đó mùa màng thuận lợi và năng suất thu hoạch sẽ được cao hơn.

Gửi câu hỏi cho chúng tôi

Giun Đất Mang Đến Điều Gì Cho Đất Trồng Của Bạn?

1. Những lợi ích mà giun đất mang đến

1.1 Là chỉ số để đánh giá chất lượng đất

Sự có mặt của giun trong đất là dấu hiệu đầu tiên để nhận biết đất canh tác có sạch, khỏe và phì nhiêu hay không. Trong đất màu mỡ, số lượng giun trung bình khoảng 300-500 con/m 2.

Mật độ giun trong đất lớn còn biểu hiện các hoạt động sống tự nhiên trong đất, bao gồm hoạt động của các sinh vật và vi sinh vật có lợi cho cây trồng như vi khuẩn, vi nấm,… Hệ sinh vật đất phân hủy chất hữu cơ làm tăng độ màu mỡ của đất, tác động đến sự phát triển của cây trồng, cấu trúc đất và chu trình cacbon.

1.2 Giun đất bổ sung nguồn dinh dưỡng cho đất

Giun đất ăn các mảnh vụn hữu cơ mục nát như xác bã thực vật. Hệ thống tiêu hóa của giun tập trung các thành phần hữu cơ và chất khoáng trong thực phẩm chúng ăn, vì vậy chất thải của chúng sẽ làm giàu chất dinh dưỡng cho đất. Vậy nên, những vùng đất không tồn tại giun sẽ trở nên kém màu mỡ, chai cứng.

Các nghiên cứu cho thấy, phân giun có chứa các chất dinh dưỡng như N, K, P, Mg nhiều hơn gấp 5 đến 11 lần so với đất thường. Như vậy, giun đóng vai trò rất quan trọng trong việc làm đất tơi xốp, tăng độ phì nhiêu của đất. Nguồn Nitơ có trong thịt giun (khi nó đã chết) cũng được phân hủy nhanh chóng đóng góp hơn nữa hàm lượng nitơ trong đất. Bên cạnh đó nó còn có tác dụng cân bằng độ pH trong đất.

Giun đất thường để lại phân giàu chất dinh dưỡng trong các hang đất của chúng, cung cấp môi trường thuận lợi để cây sinh trưởng, và phát triển tốt. Từ đó các rãnh đất sẽ giúp rễ cây xuyên sâu hơn vào lòng đất, hấp thụ được nhiều dinh dưỡng hơn.

1.3 Giun đất cải thiện hệ thống thoát nước, thoáng khí

Giun đất hoạt động di chuyển và đào hang sống trong đất, tạo thành các khoảng trống, từ đó giúp cải thiện hệ thống thoát nước tự nhiên cho đất. Đất không được cày xới và có lượng giun sinh sống cao thì khả năng thoát nước tốt hơn so với đất được canh tác.

Bên cạnh đó, giun đất còn là kỹ sư xây dựng tài giỏi trong việc tạo ra các đường lưu dẫn đưa các chất dinh dưỡng phân tán đều trong đất nhờ “đường mòn” tạo ra trong quá trình di chuyển.

Đồng thời, việc giun thường xuyên di chuyển như vậy tạo thành những khe hở trong đất làm đất được tơi xốp, thoáng, giàu dưỡng khí, không bị ứ đọng nước, không khí trong đất được lưu thông. Như vậy rễ cây hô hấp dễ dàng, từ đó sẽ phát triển khỏe mạnh và cho năng suất cao.

1.4 Giun giúp cải thiện cấu trúc đất, làm tăng năng suất

Phân giun và xác giun kết hợp với hạt đất có khả năng tái tạo keo đất, ổn định nước, lưu giữ độ ẩm và góp phần tái tạo lại lớp đất mặt. Giun để lại phân trong đất, xây dựng lại cấu trúc bề mặt đất, trong điều kiện thuận lợi chúng sẽ mang lại khoảng 50 tấn phân/ ha, mỗi năm đủ để tạo thành một lớp đất sâu 5mm.

Những chú giun ngày đêm cần mẫn cày xới tạo môi trường sống thuận lợi, cải tạo giúp đất tơi xốp, thoáng khí, giàu dinh dưỡng cho cây trồng phát triển khỏe mạnh, cho năng suất cao.

Khi đất thoáng khí, các vi sinh trong đất sẽ phát triển mạnh và tạo cho đất có hoạt động sinh học cao qua đó giảm được tác động xấu từ sâu bệnh hại tồn tại trong đất gây ra.

1.5 Giun đất tiêu diệt vi sinh vật gây bệnh

Theo các nhà nghiên cứu, giun đất sẽ giúp tiêu diệt các vi sinh có hại gây bệnh cây trồng hiệu quả, khi chúng ăn lá cây sẽ tiêu hóa luôn những nấm mốc, khuẩn hại.

Phân của chúng là môi trường tốt nhất để các loại vi sinh vật hữu ích phát triển, từ đó, các vi sinh vật hữu ích sẽ tạo ra chất kháng sinh để ngăn chặn các vi sinh vật gây hại cho cây trồng. Mật độ giun trong đất cao cũng tạo môi trường thuận lợi cho các vi sinh vật có lợi giúp hạn chế tuyến trùng và nấm gây hại trong đất.

2/ Bảo vệ và phát triển giun đất

Khi bạn đã biết giun đất mang đến điều gì cho đất trồng rồi, thì hãy tìm hiểu thêm về cách bảo vệ và phát triển chúng.

Giun cần cung cấp đủ lượng sinh khối, nhiệt độ vừa phải và đủ ẩm. Do đó cần che phủ đất bằng các vật liệu che phủ hữu cơ hoặc trồng cây che phủ để tạo môi trường sống thuận lợi, đồng thời cung cấp nguồn thức ăn cho giun đất.

Việc làm đất thường xuyên để canh tác sẽ làm giảm số lượng giun trong đất bởi nó sẽ làm xáo trộn môi trường sống và hoạt động sống của giun, vậy nên hãy hạn chế tối đa việc cày xới đất.

Các loại thuốc trừ sâu, thuốc trừ cỏ cũng ảnh hưởng rất xấu tới giun. Khi các hóa chất BVTV này được đưa vào đất, sẽ gây hại đến giun, giun bị nhiễm độc và chết. Vì vậy, khi trường hợp cây trồng có sâu bệnh, không nên sử dụng thuốc hóa học mà thay vào đó là các loại thuốc sinh học, không gây hại đến giun cũng như hệ sinh vật đất.

Người biên tập: Vân Hồng

Lợi Ích To Lớn Của Giun Quế

Giun quế (trùn đỏ) đã và đang trở thành vật nuôi “cưng” của nhiều hộ gia đình. Theo những người nuôi giun quế thì đây là nghề “một vốn bốn lời”, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Giun quế có thể dùng làm thức ăn vô cùng bổ dưỡng cho gia súc, gia cầm; phân của trùn quế – được xem là nguồn phân sạch, làm phân bón rất tốt cho cây trồng…

giun quế có rất nhiều lợi ích

1. Giun là loài thức ăn giàu đạm, chất lượng cao để nuôi gia súc, gia cầm và thủy hải sản, đồng thời làm giảm chi phí thức ăn chăn nuôi

Với hàm lượng Protein thô chiếm 70% trọn lượng khô, hàm lượng đạm của giun tương đương với bột cá, thường được dung trong thức ăn chăn nuôi. Giun còn hội đủ 12 loại Axit Amin, nhiều loại Vitamin, chất khoáng cần thiết cho gia súc, gia cầm và thủy sản. Đặc biệt giun còn có các loại kích thích tố sinh trưởng tự nhiên mà trong bột cá không có. Thức ăn chăn nuôi có bột giun sẽ không có mùi tanh và khét của cá và dầu cá, hấp dẫn vật nuôi, lại bảo quản được lâu hơn thức ăn có dùng bột cá. Theo W.T.Mason ( Đại học Phlorida – Mỹ): Giun, nhất là giun tươi, là thức ăn lý tưởng để nuôi thủy sản, nhất là sản xuất con giống ba ba, rùa, lươn, tôm, cá Chình, đặc biệt là nuôi cá Tầm – Một loại cá quý để ăn và sản xuất món trứng cá muối đắt tiền. Nếu cho chúng ăn giun tươi hàng ngày bằng 10% – 15% trọng lượng cơ thể sẽ tốt hơn bất cứ loại thức ăn nào khác, tốc độ sinh trưởng sẽ tăng từ 15%-40%, năng suất trứng tăng lên 10%. Nếu trộn 2-3% bột giun dùng để nuôi, năng suất sẽ tăng trên 30%, giá thành thức ăn giảm 40%-60%, đồng thời tăng sức sinh sản và kháng bệnh của tôm, cá. Điều này rất có ý nghĩa khi thức ăn chăn nuôi đắt đỏ như hiện nay. Hiệp hội nuôi gà của Mỹ cho rằng: Giun là phương án hàng đầu cung cấp Protein chất lượng cao, rẻ nhất, dễ nhất cho vật nuôi, đặc biệt là gà. Thức ăn trộn 2-3% bột giun để nuôi lợn, tốc độ tăng trọng trên 74,2%; nếu nuôi gà, thì năng suất trứng tăng 17-25%, tốc độ sinh trưởng tăng 56% -100%. Đặc biệt, nếu nuôi gà bằng thức ăn có giun tươi thì hầu như gà không bị bệnh; trong khi nếu nuôi bằng thức ăn không có giun, tỷ lệ mắc bệnh cúm gà 16-40%. Giun Quế còn chứa trên 8% Axit Glutamic ( còn gọi là bột ngọt, hay mì chính), nên khỉ sử dụng làm thức ăn chăn nuôi thì vật nuôi khỏe, chóng lớn, đẻ khỏe, ít bệnh tật và sẽ cho thịt thơm ngon hơn hẳn so với vật nuôi thông thường. Vì vậy ngày càng có nhiều hãng sản xuất thức ăn công nghiệp quan tâm đưa bột giun trộn vào thức ăn chăn nuôi để tạo sự khác biệt so với thức ăn thông thường, nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm trên thị trường.

2. Phân giun làm thức ăn cho gia súc, gia cầm, thủy sản và là một loại phân hữu cơ thiên nhiên giàu dinh dưỡng nhất mà con người từng biết đến

Thức ăn chủ yếu của giun là phân trâu bò, ngựa, dê, cừu, thỏ, lợn, gà; phế thải, rau của quả, cây thân thảo và các loại rác hữu cơ hoai mục…; sau khi được giun tiêu hóa sẽ trở thành phân giun, có chứa một số Axit Amin như: Tyrosin, Arginin, Cystin, Methiomin, Histidin… thì phân giun có thể làm thức ăn chăn nuôi cho gia súc, gia cầm, thủy sản. Phân giun chứa một hỗn hợp vi sinh có hoạt tính cao, dễ hòa tan trong nước, chứa hơn 50% chất mùn. Do đó phân giun không chỉ kích thích tăng trưởng cây trồng, mà còn tăng khả năng cải tạo đất. Phân giun còn chứa các khoáng chất được cây trồng hấp thụ một cách trực tiếp, không như các loại phân hữu cơ khác phải được phân hủy trong đất trước khi cây hấp thụ. Hàm lượng N-P-K, Ca và các chất khoáng vi lượng trong phân giun, cao gấp 2-3 lần phân trâu bò, phân ngựa; gấp 1,5-2 lần phân lợn và phân dê. Hơn nữa, phân giun không có mùi hôi thối như các loại phân gia súc, gia cầm, lại có thể để lưu giữ lâu ngày trong túi nilon mà không sợ bị mốc, rất thuận lợi cho việc bảo quản và vận chuyển. Phân giun làm giảm lượn Axit Carbon trong đất và gia tăng nồng độ Nitơ ở trạng thái cây trồng có thể hấp thụ được. Chất Axit Humic ở trong phân giun có thể giúp cây trồng dễ dàng hấp thụ nhiều hơn bất kỳ chất dinh dưỡng nào khác. Chất IAA (Indol Acetic Aicd) có trong phân giun là một trong những chất kích thích hữu hiệu, giúp cây trồng tăng trưởng tốt. Phân giun có thể giúp chống sự xói mòn và tăng khả năng giữ nước trong đất. Cây trồng khi bón phân giun sẽ không bị “cháy”, khống chế được các kim loại nặng xâm nhập cây gây đột biến làm phát sinh tế bào lại có hại, gây hoại tử rễ…

Chất mùn trong phân giun loại trừ được những độc tố, nấm, và vi khuẩn có hại trong đất có thể ngăn ngừa các bệnh về rễ và đẩy lùi nhiều bệnh của cây trồng. Phân giun có tác dụng điều hòa môi trường đất rất tốt, giúp cây phát triển ngay cả khi nồng độ pH trong đất quá cao hoặc thấp. Việc nuôi giun Quế lấy phân, chính là việc áp dụng công nghệ xử lý rác thải hữu cơ bằng con giun Quế., một trong những công nghệ rẻ tiền nhất. Hiện tại phân giun Quế thường được sử dung cho các mục đích như: Kích thích sự nẩy mầm và phát triển của cây trồng; Điều hòa dinh dưỡng cải tạo đất, làm cho đất màu mỡ và tơi xốp; Dùng làm phân bón lót cho cây rau quả, tạo ra sản phẩm có chất lượn và năng suất cao; Dùng làm phân bón lá hảo hạng và kiểm soát sâu bọ hại cây trồng. Vì vậy, phân giun là loại phân sạch thiên nhiên quý giá để bón cho hoa, cây cảnh, rau quả trong nông nghiệp sạch, được thị trường rất ưa chuộng.

3. Giun làm thuốc chữa nhiều loại bệnh cho con người

Y học cổ truyển của nhiều nước, trong đó có Việt Nam, đã dùng giun đất để chữa các bệnh về huyết áp, tim mạch, thần kinh, kháng ung thư, hen suyễn, sốt rét, thấp khớp, đậu mùa, thương hàn, gẫy tay chân v..v… Loại axit amin Tyrosin trong giun có thể tăng tuần hoàn máu ngoại vi của bề mặt cơ thể, tăng tản nhiệt, có tác dụng giải nhiệt, hạ sốt. Dịch ngâm nước của giun có tác dụng làm làm tê tri giác (giảm đau). Dung dịch cồn của giun, có tác dụng giảm huyết áp từ từ và giữ được lâu bền, sử dụng rất tốt cho người cao huyết áp. Rượu thuốc Lumbrokinase làm từ giun đất đã thanh trùng, ngâm rượu, đến khi có màu nâu đậm, đem ra sử dụng sẽ giúp ngăn ngừa tai biến mạch máu não, xơ vữa động mạch và mỡ máu ở người cao tuổi. Trong cơ thể giun có chất xúc tác, có tác dụng co bóp cửa tử cung, trợ giúp sản phụ dễ dàng khi đẻ. Thành phần đạm trong chiết suất của giun, có tác dụng giãn nở khí quản, trị bệnh hen xuyễn. nhờ việc chứa các hàng lượng rất cao của axit Linoleic, cùng khoáng chất vi lượng đặc hiệu chống oxi hóa là Se, giúp giun tăng năng lực sát khuẩn, tăng cường miễn dịch, nâng cao sức đề kháng trong cơ thể, nên tăng được khả năng chống ung thư, giảm hội chứng thiểu năng trí tuệ (bệnh đao) ở trẻ em; ổn định sự hoạt động của cơ tim nên phòng được các bệnh bất thường về tim, ngăn ngừa viêm gan, loét dạ dày, viêm đường ruột, thấp khớp, viêm họng, tiểu đường, yếu về sinh lý. Hàm lượng Zn có trong giun giúp điều trị đối với những trẻ em biến an, tóc thưa, chậm lớn, ngăn ngừa sự phát triển không bình thường về tri giác và thính giác trẻ em. Ngoài ra nó còn điều trị suy nhược thần kinh toàn diện, trí nhớ kém, ngủ kém, khứu giác bất thường.

4. Giun làm thực phẩm cho người và sản xuất mỹ phẩm

Giun có hàm lượng Protein cao, giàu nguyên tố vi lượng tương tự thịt thỏ – là loại thịt giàu đạm, ít chất béo. Trong giun có tới 8 loại Axit Amin cần thiết cho con người. Hàm lượng Vitamin B1, B2 trong giun gấp 10 lần khô đậu tương, 14 lần bột cá, cùng sự phong phú về Vitamin A, E, C và các vi lượng khoáng chất có lợi cho sức khỏe dinh dưỡng của con người. Vì vậy nhiều nước đã sử dụng giun để chế biến thành thực phẩm cho con người. Ở Nhật, có tới 200 loại thực phẩm được chế biến từ giun. Ở Italya giun được chế biến patê. Ở Đài Loan có hơn 200 món ăn làm từ giun. Ở Australia người ta ăn giun với món ốp lếp. Hiện nay, đã có đồ hộp thực phẩm làm bằng giun và bánh bích quy bán ra thị trường. Nhiều nhà dinh dưỡng học trên thế giới dự đoán: Giun – loại động vật dinh dưỡng, dễ nuôi, trong tương lai sẽ trở thành nguồn quan trong về thực phẩm động vật bình dân, phổ biến và quá giá của loài người. Giun cũng cung cấp nguyên vật liệu thô tốt nhất cho công nghiệp. Một số Enzyme và hoạt chất được chiết xuất từ giun để làn thuốc, thức ăn, mỹ phẩm. Hiện giun đang được quan tâm nghiên cứu sử dụng trong sản xuất mỹ phẩm.

5. Giun góp phần bảo vệ môi trường và phát triển nông nghiệp sinh thái

Giun có sức tiêu hóa lớn. Tác dụng phân giải hữu cơ của giun chỉ đứng sau các vi sinh vật. Một tấn giun có thể tiêu hủy được 70 – 80 tấn rác hữu cơ, hoặc 50 tấn phân gia súc trong 03 tháng. Các nước trên thế giới đã tận dụng cơ năng đặc thù này của giun để xử lý chất thải sinh hoạt hoặc rác thải hữu cơ, làm sạch môi trường, có hiệu quả tốt. Một công ty ở California (Mỹ) đã nuôi 500 triệu giun, hàng ngày xử lý khoảng 2.000 tấn rác. ở Nhật, những nhà máy hằng năm sản xuất được 10.000 tấn giấy, với 45.000 tấn phế thải, đã sử dụng giun để xử lý chất thải, đồng thời sản xuất được 2.000 tấn giun khô, 15.000 tấn phân giun. Giun sống trong đất sẽ làm tăng độ phì nhiêu của đất. Phân giun góp phần làm giảm mức sử dụng phân hóa học, giúp cây trồng phát triển tốt, tăng khả năng chống sâu bệnh, giảm bớt việc sử dụng thuốc trừ sâu, nhờ đó bảo vệ được môi trường. Với những khu vực ô nhiễm, nếu nuôi giun cũng làm sạch được môi trường nước. Hơn nữa, giun đất có thể xử lý chất thải hữu cơ, phân gà, phân lợn, phân bò và chuyển hóa phân bón hữu cơ có chất lượng cao, và bằng cách đó cải thiện môi trường sinh thái các vùng nông thôn. Thậm chí, phân của giun cũng có thể xử lý nước thải. Nuôi giun trong gia đình, vừa xử lý được rác thải, vừa có phân giun bón cho hoa, cây cảnh. Một số nước đã làm các khay nuôi giun đặt tại bếp ăn của các gia đình, thậm chí cả ở các khách sạn năm sao.

Giun là một sinh vật chỉ thị về môi trường thổ nhưỡng, Dùng kính hiển vị điện tử quan sát tình trạng sưng tấy, nổi u của giun: Các tế bào thượng bì của niêm mạc đường ruột co lại hoặc bị lở loét xuất huyết… Có thể đánh giá được mức độ ô nhiễm kim loại nặng và hóa chất độc hại của môi trường vùng đất mà giun sống. Giun sống trong đất, nhưng da rất ít dính đất. Hỗn hợp dịch thể mà giun tiết ra, cũng phương thức vận động của giun, đang được nghiên cứu phỏng sinh học về công nhệ không bám đất hoặc ít bám đất trong tác nghiệp cơ giới. Giun là một trong những loại mội câu rất hấp dẫn đối với cá. Với 20% dân số có sở thích đi câu ở Nhật, đã cần mỗi năm đến 300 tần giun, Ở Trung Quốc, hằng năm cùng tiêu tốn trên 1000 tấn giun để làm mồi câu, Giun còn được sử dụng làm học cụ trong nhà trường, có thể tiến hành vào bất cứ thời điểm nào, vừa rẻ tiền, thao tác dễ dàng, mà việc thu nhập bảo quả tiêu bẩn lại an toàn cho thầy giáo và học sinh.