Lợi Ích Quốc Gia Công Cộng / Top 6 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Nhatngukohi.edu.vn

Thu Hồi Đất Để Phát Triển Kinh Tế Xã Hội Vì Lợi Ích Quốc Gia Công Cộng

Căn cứ vào điểm a, khoản 2 Điều 62 Luật Đất đai năm 2013 việc thu hồi đất để phát triển kinh tế xã hội vì lợi ích quốc gia công cộng như sau:

Tại địa phương chúng tôi vừa được phê duyệt dự án thành lập khu công nghiệp nên các hộ nằm trong khu quy hoạch sẽ bị thu hồi đất để phát triển kinh tế xã hội vì lợi ích quốc gia công cộng. Trường hợp thu hồi này có đúng không? Những trường hợp nào được coi là thu hồi để phát triển kinh tế xã hội vì lợi ích quốc gia công cộng?

Tổng đài tư vấn pháp luật miễn phí 24/7 gọi 19006500

Khoản 11 Điều 3 Luật đất đai 2013 quy định khái niệm nhà nước thu hồi đất như sau:

Trường hợp thu hồi này là đúng theo quy định pháp luật đất đai hiện hành. Căn cứ vào điểm a, khoản 2 Điều 62 Luật Đất đai năm 2013 thì việc thu hồi đất nằm trong quy hoạch khu công nghiệp đúng là thu hồi đất để phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.

Những trường hợp thu hồi đất để phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia bao gồm ba nhóm chính sau:

Nhà nước thu hồi đất thực hiện các dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư mà phải thu hồi đất (khoản 1 Điều 62 Luật Đất đai năm 2013);

Thu hồi đất thực hiện các dự án do Thủ tướng Chính phủ chấp thuận quyết định đầu tư, bao gồm:

Dự án xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế; khu đô thị mới; dự án đầu tư bằng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) (điểm a, khoản 2 Điều 62 Luật Đất đai năm 2013);

Dự án xây dựng trụ sở cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương; trụ sở của tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao; công trình di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh được xếp hạng, công viên, quảng trường, tượng đài, bia tưởng niệm, công trình sự nghiệp công cấp quốc gia (điểm b, khoản 2 Điều 62 Luật Đất đai năm 2013);

Dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật cấp quốc gia gồm giao thông, thủy lợi, cấp nước, thoát nước, điện lực, thông tin liên lạc; hệ thống dẫn, chứa xăng dầu, khí đốt; kho dự trữ quốc gia; công trình thu gom, xử lý chất thải (điểm c, khoản 2 Điều 62 Luật Đất đai năm 2013);

Thu hồi đất để phát triển kinh tế xã hội vì lợi ích quốc gia công cộng

Thu hồi đất để thực hiện các dự án do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chấp thuận mà phải thu hồi đất, bao gồm:

Dự án xây dựng trụ sở cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tố chức chính trị – xã hội; công trình di tích lịch sử’ văn hóa, danh lam thắng cảnh được xếp hạng, công viên, quảng trường, tượng đài, bia tưởng niệm, công trình sự nghiệp công cấp địa phương (điểm a, khoản 3, Điều 62 Luật Đất đai năm 2013);

Dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật của địa phương gồm giao thông, thủy lợi, cấp nước, thoát nước, điện lực, thông tin liên lạc, chiếu sang đô thị; công trình thu gom, xử lý chất thải (điểm b, khoản 3, Điều 62 Luật Đất đai năm 2013);

Dự án xây dựng công trình phục vụ sinh hoạt chung của cộng đông dân cư; dự án tái định cư, nhà ở cho sinh viên, nhà ở xã hội, nhà ở công vụ; xây dựng công trình của cơ sở tôn giáo; khu văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí phục vụ công cộng; chợ; nghĩa trang, nghĩa địa, nhà tang lễ, nhà hỏa táng (điểm c, khoản 3, Điều 62 Luật Đất đai năm 2013);

Dự án xây dựng khu đô thị mới, khu dân cư nông thôn mới; chỉnh trang đô thị, khu dân cư nông thôn; cụm công nghiệp; khu sản xuất; chế biến nông sản, lâm sản, thủy sản, hải sản tập trung; dự án phát triển rừng phòng hộ, rừng đặc dụng (điểm d, khoản 3, Điều 62 Luật Đất đai năm 2013);

Dự án khai thác khoáng sản được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép, trừ trường hợp khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, than bùn, khoáng sản tại các khu Vực có khoáng sản phân tán, nhỏ lẻ và khai thác tận thu khoáng sản (điểm đ, khoản 3, Điều 62 Luật Đất đai năm 2013).

Xin chân thành cảm sự đồng hành của quý khách.

Đảng Cộng Sản Việt Nam Đề Cao Tối Đa Lợi Ích Quốc Gia, Dân Tộc Trong Hợp Tác Quốc Tế

(VOV5) – Dự thảo văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng nhấn mạnh mục tiêu của đối ngoại trong 5 năm tới là “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia, dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”. Mục tiêu này được đưa ra dựa trên những bài học có được từ 30 năm đổi mới, phù hợp với bối cảnh và tình hình quốc tế mới.

5 năm qua, Việt Nam đã triển khai đồng bộ, toàn diện, có hiệu quả các hoạt động đối ngoại trên tất cả các kênh song phương và đa phương, dựa trên sự phối hợp chặt chẽ giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Quốc hội và đối ngoại nhân dân.

Hoạt động đối ngoại trong 5 năm qua góp phần nâng cao vị thế đất nước

5 năm qua, Việt Nam đã hoàn thành việc xây dựng khuôn khổ quan hệ đối tác với hầu hết các nước có ảnh hưởng lớn ở khu vực và trên thế giới. Việt Nam đã thiết lập thêm quan hệ đối tác chiến lược với 8 nước, nâng cấp lên đối tác chiến lược toàn diện hoặc sâu rộng với 2 nước, lập quan hệ đối tác toàn diện với 3 nước…Đặc biệt, 5 năm qua, Việt Nam đã hội nhập sâu và toàn diện hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới như hoàn thành 3 Hiệp định thương mại tự do song phương ( FTA) thế hệ mới với Hàn Quốc, Liên minh kinh tế Á – Âu và Liên minh châu Âu. Đối với Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), Việt Nam tích cực triển khai các biện pháp ưu tiên nhằm thực hiện Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC…Tháng 10/2015, Việt Nam cùng với các nước thành viên kết thúc đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia, dân tộc là yêu cầu đối với công tác đối ngoại 5 năm tới

Ông Bùi Hồng Phúc, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, cho rằng Dự thảo văn kiện Đại hội XII đã nêu ra một vấn đề hết sức sâu sắc, có ý nghĩa. Đó là bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia, dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là yêu cầu đối với công tác đối ngoại trong 5 năm tới. Quan điểm này thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh trong vấn đề dân tộc và rất phù hợp trong bối cảnh hiện nay: ” Đất nước đang đứng trước 2 nhiệm vụ rất lớn, mang tính chiến lược. Đó là phải phát triển đất nước ngày càng giàu mạnh, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. Mặt thứ hai là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất đất nước trong tình hình Biển Đông rất phức tạp, khó lường. Tôi cho rằng chúng ta đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết chính là vì hiện nay, tất cả các nước trên thế giới, từ lớn đến nhỏ, từ nhỏ đến lớn đều đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật… đều hành động như vậy. Đó cũng là bài học mà Đảng đã rút ra từ 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới”.

Trong bối cảnh hòa bình, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của nhiều quốc gia trên thế giới đang bị đe dọa, một lĩnh vực hợp tác hết sức quan trọng trong chính sách đối ngoại chung của Việt Nam là hợp tác quốc phòng. Thiếu tướng Vũ Tiến Trọng, Viện trưởng Viện quan hệ quốc tế về quốc phòng, cho biết đối ngoại quốc phòng thực hiện nhất quán chủ trương của Đảng và Nhà nước “là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các quốc gia trong cộng đồng quốc tế”. Việt Nam chủ trương hợp tác quốc phòng- quân sự với tất cả các nước láng giềng, các nước lớn, các nước bạn bè truyền thống, đặc biệt là các nước trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Một trong các nguyên tắc của Việt Nam là độc lập, tự chủ, quan hệ bình đẳng, cùng có lợi, không đi với nước này để chống lại nước khác. Việt Nam hợp tác để nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng, chính nghĩa của mình trên tất cả các lĩnh vực kinh tế- chính trị- an ninh, trong đó có chủ quyền lãnh thổ và độc lập dân tộc. Và chủ trương này sẽ tiếp tục được thực hiện trong những năm tới. Thiếu tướng Vũ Tiến Trọng nói: “Chúng ta hợp tác để tăng cường năng lực quốc phòng- quân sự để tự bảo vệ chủ quyền, độc lập và lãnh thổ của mình, trên nguyên tắc là giữ được môi trường hòa bình, đảm bảo cho hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, đồng thời đóng góp cho môi trường hòa bình chung ở khu vực , tạo ra một khu vực Đông nam á cũng như châu Á- Thái Bình Dương thịnh vượng và tất cả các nước đều hưởng lợi”.

Với chủ trương hợp tác đúng đắn của mình, chính sách đối ngoại của Việt Nam đã góp phần quan trọng trong việc giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển, đóng góp tích cực vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội và giữ vững chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, bảo vệ an ninh Tổ quốc.

Hương Giang

Công Nghệ 4.0 Để Nâng Cao Lợi Ích Quốc Gia

Trong bối cảnh cuộc chiến thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đã tiến sang năm thứ 2, Việt Nam đã nhanh chóng tận dụng lợi thế của cuộc di cư sản xuất từ Trung Quốc vào Việt Nam.

Sự kết hợp giữa mức lương cao hơn và tăng các quy định về môi trường có nghĩa là khu vực Quảng Đông, trung tâm sản xuất phía nam Trung Quốc, không còn là trung tâm chi phí thấp như trước đây. Đối với nhiều công ty, Việt Nam đã được coi là một sự thay thế hợp lý. Cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc với kế hoạch tăng cao mức thuế đối với hàng xuất khẩu của Trung Quốc sang Mỹ đã đẩy nhanh xu hướng này.

Quý đầu tiên của năm 2019 chứng kiến ​​đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng 86,2%, đạt 10,8 tỷ USD, với đầu tư của Trung Quốc chiếm gần một nửa số đó, theo tờ Securities Times của Trung Quốc.

Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng 7,1% trong năm ngoái, đã thu hút rất nhiều công ty đa quốc gia, bao gồm Intel, Samsung, LG… tất cả đều đầu tư rất lớn. Fred Burke, đối tác quản lý của công ty luật Baker McKenzie tại Việt Nam, nhận thấy một loạt các nhà sản xuất Trung Quốc vào Việt Nam ngay cả trước cuộc chiến thương mại.

Tuy nhiên, năng lực sản xuất với hạ tầng chưa được đầu tư đủ quy mô nên Việt Nam đang trở nên quá tải. Chi phí đất đai và lao động tại Việt Nam đang tăng. Việc tắc nghẽn giao thông tại cảng và đường bộ vận chuyển đã báo hiệu sự cần thiết của các giải pháp thay thế nhằm đáp ứng tình trạng nhu cầu sản xuất vẫn tiếp tục tăng cao.

Koh, Giám đốc điều hành của nhà sản xuất đồ nội thất Singapore Koda, đang điều hành các nhà máy ở Malaysia và Việt Nam, đã thực hiện nhiều khoản đầu tư tại Việt Nam, lo lắng rằng các khu vực kinh tế trọng điểm của Việt Nam đang phải đối phó với dòng công ty chuyển tới, nhiều trong số đó đang tìm cách thoát thuế quan chiến tranh thương mại.

“Ở khắp mọi nơi, những tòa nhà cao tầng đang mọc lên. Các con đường ngày càng đông đúc, tình trạng kẹt xe ngày càng tồi tệ hơn. Có một sự khác biệt lớn về tắc nghẽn cảng trong hai năm qua. Hiện nay, chúng tôi phải đặt chỗ cho một con tàu trước hai tuần. Chúng tôi không phải làm điều này trước đây”, ông Koh cho biết.

Do đó, công nghệ sản xuất tiên tiến và quy trình đặc trưng bởi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, hay công nghiệp 4.0, có thể là chìa khóa để giải quyết vấn đề này. Tuy nhiên, khi mà Việt Nam sẵn sàng áp dụng công nghệ 4.0 với việc triển khai chương trình “Made in Vietnam 4.0”, thì phải có sự tập trung bình đẳng trong việc nâng cao kỹ năng cho lực lượng lao động.

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) có nền kinh tế kết hợp 2,6 nghìn tỷ USD (tạo thành nền kinh tế lớn thứ bảy trên thế giới) và dân số vượt quá 632 triệu người. Đầu tư trong khu vực đang tăng lên do lực lượng lao động được đào tạo ngày càng tốt hơn, thị trường tiêu dùng mới nổi, mở rộng cơ sở hạ tầng và mạng lưới hậu cần đang phát triển. Hơn nữa, ASEAN đã tăng cường hội nhập thương mại trên thị trường toàn cầu và chuyển đổi từ nông nghiệp sang sản xuất và dịch vụ.

Tuy nhiên, khi nói đến việc triển khai các công nghệ mới tại nơi làm việc, các doanh nghiệp (DN) ASEAN có xu hướng không đứng hàng đầu. Họ được coi là tín đồ của việc áp dụng công nghệ chứ không phải là nhà đổi mới.

Ở các nền kinh tế phát triển, những cải tiến gần đây trong tự động hóa đang dẫn đến việc tái sản xuất, trong đó sản xuất được đẩy trở lại các quốc gia đang phát triển trong các ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động phổ thông, như may mặc, giày dép, lắp ráp điện tử và ô tô… Các quốc gia thành viên ASEAN đang tụt lại trong xu hướng này. Trong khi đó, chi phí của các công nghệ tự động hóa đang giảm nhanh chóng và ứng dụng của chúng ngày càng trở nên phổ biến, thay thế dần các công việc chân tay. Do đó, ASEAN có thể gặp phải những khó khăn to lớn trong phát triển và tăng trưởng nếu không thể giải quyết vấn đề này.

Nghiên cứu “ASEAN chuyển đổi: Tương lai của các công việc có nguy cơ tự động hóa” của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đánh giá Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ cao nhất trong 5 quốc gia thuộc ASEAN (bao gồm Campuchia, Indonesia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam) về các ngành nghề có tay nghề thấp phải đối mặt với rủi ro cao từ sự tự động hóa, ở mức 70%.

Nhưng công nghệ không phải là mối đe doạ mà nó là một cơ hội. Với các giải pháp tự động hóa, nâng cao kỹ năng và thân thiện với người dùng, người lao động có thể được trang bị các kỹ năng và chuyên môn để đáp ứng tốt nhất và hưởng lợi từ việc thay đổi vai trò của họ.

Cobot – Giải pháp trong tầm tay

Các robot cộng tác (cobots) đang thay đổi câu chuyện “Robots thay thế các công việc”, bằng việc đặt con người là trung tâm của sự biến đổi công nghệ. Các cobot này được thiết kế để hoàn thành các nhiệm vụ bên cạnh người công nhân mà không cần rào cản an toàn nào (nhằm phòng ngừa rủi ro), giúp công nhân dễ dàng thích ứng với thời kỳ công nghệ công nghiệp 4.0.

Để cobot đảm nhiệm các công việc lặp đi lặp lại, vất vả và nguy hiểm, người lao động có thể chuyển sang các công việc yêu cầu kỹ năng cao hơn và được trả mức lương tốt hơn. Như vậy sẽ hạn chế căng thẳng và chấn thương do tai nạn khi làm việc, giúp môi trường làm việc trở nên an toàn hơn. Hơn hết các nhà sản xuất cũng được hưởng lợi từ việc năng suất được cải thiện, chất lượng đầu ra phù hợp và chi phí vận hành thấp hơn khi họ đưa cobot vào dây chuyền sản xuất.

Điển hình là Công ty cổ phần công nghiệp ô-tô Vinacomic có trụ sở tại Quảng Ninh, đã nhận thấy những lợi ích rõ ràng trong vòng 4 tháng kể từ khi triển khai cobot Universal Robot (UR) đầu tiên của mình. Công ty đã chứng kiện ​​sự gia tăng năng suất đến 30% với những cải tiến về chất lượng sản phẩm. Những lợi thế cạnh tranh như vậy có thể thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của công ty, tạo thêm việc làm cũng như chuỗi cung ứng.

Với chi phí hiệu quả, an toàn và linh hoạt khi triển khai, cobot giúp quá trình tự động hóa cho các DN ở mọi quy mô trở nên khả thi.

Chuẩn bị lực lượng lao động cho công nghiệp 4.0

Hiện nay, Việt Nam đang thiếu hụt lao động lành nghề, xuất phát từ việc thiếu hụt giáo dục đào tạo kỹ thuật và dạy nghề (TVET), đây có thể là một trở ngại trong nhiệm vụ thúc đẩy tự động hoá đất nước.

Xét về mặt tích cực, những nỗ lực cải thiện chất lượng lao động tại Việt Nam đang diễn ra từ các tổ chức nhà nước lẫn tư nhân. Ví dụ như là dự án “Kỹ năng và Kiến thức cho tăng trưởng kinh tế hội nhập” được hỗ trợ bởi khoản vay 75 triệu USD từ Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB). Dự án này hỗ trợ cung cấp thiết bị đào tạo tiên tiến cho 16 cơ sở TVET quốc gia, để góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Ngoài ra, dự án còn thiết lập mối quan hệ đối tác giữa các cơ sở đào tạo nghề và các DN bên ngoài để cung cấp cơ hội đào tạo tại chỗ cho sinh viên.

Để chuẩn bị lực lượng lao động cho công nghiệp 4.0, các chuyên gia tự động hóa như UR đã giới thiệu Học viện UR để cung cấp các khóa học và hội thảo trực tuyến về kỹ năng lập trình cobot cho người dùng miễn phí, bất kể trước đó đã có nền tảng về robot. Ngoài ra, việc đào tạo được thực hiện bởi các giảng viên được chứng nhận tại Mạng lưới trung tâm được ủy quyền đào tạo của UR.

Trên cả công nghệ 4.0, UR (Universal Robot) hình dung ra một tương lai công nghiệp 5.0, trong đó tập trung phát triển vào sự kết hợp giữa con người và robot, hợp nhất công nghệ tự động hóa cộng tác thông minh với các kỹ năng tư duy phản biện, sự nhận thức nhanh nhẹn và cả sự sáng tạo của con người. Ngành công nghiệp 5.0 sẽ thúc đẩy sự hợp tác giữa con người và robot, ưu tiên sự tương tác của con người trong sản xuất để tạo ra các sản phẩm, dịch vụ và trải nghiệm thiên về cá nhân.

Công nghệ 4.0 là cơ hội để Việt Nam tối đa hóa lợi ích tiềm năng từ cuộc chiến tranh thương mại và vươn lên trở thành một nền kinh tế phát triển. Điều quan trọng là Việt Nam liên tục trang bị cho lực lượng lao động của mình các kỹ năng cần thiết để tìm ra các cơ hội và giải quyết các thách thức trong tương lai, đảm bảo sự tiến bộ chung của toàn xã hội.

Cộng Đồng Asean: Lợi Ích Của Việt Nam Khi Gia Nhập Asean

QĐND – Có thể nói, việc gia nhập ASEAN đã đem lại lợi ích nhiều mặt cho Việt Nam. Điều này được thể hiện và chứng minh trên nhiều khía cạnh, lĩnh vực khác nhau.

Về mặt chính trị-an ninh, gia nhập ASEAN giúp Việt Nam củng cố môi trường hòa bình, ổn định của khu vực nói chung và Việt Nam nói riêng nhờ gia tăng đối thoại, tăng cường hợp tác giữa các nước trong khu vực nhằm ứng phó với những thách thức chung. ASEAN cũng tạo môi trường và không khí thuận lợi để Việt Nam thúc đẩy quan hệ láng giềng với các nước trong khu vực, giải quyết những vấn đề trong quan hệ song phương do lịch sử để lại hoặc mới phát sinh. Là thành viên ASEAN, Việt Nam cũng góp phần xây dựng và thúc đẩy các cơ chế, tiến trình hợp tác khu vực phát triển đúng hướng, phù hợp với lợi ích quốc gia. Trong quan hệ đối ngoại, ASEAN giúp tăng cường vị thế và tiếng nói của Việt Nam trên trường quốc tế, hỗ trợ Việt Nam thúc đẩy quan hệ với các đối tác, trong đó có nhiều nước lớn như: Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Nga.

Về kinh tế, ASEAN là nơi Việt Nam hội nhập đầu tiên, là thị trường xuất nhập khẩu và nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tiên của Việt Nam. Hội nhập ASEAN, Việt Nam đã hài hòa hóa hệ thống tiêu chuẩn, quy trình thủ tục với các nước trong khu vực. Nhờ tập dượt hội nhập thành công ở khu vực, Việt Nam đã tự tin hơn khi hội nhập sâu rộng với thế giới. Cũng nhờ ASEAN, Việt Nam đã thúc đẩy được quan hệ kinh tế với nhiều đối tác quan trọng, thông qua ASEAN đàm phán thiết lập khu vực mậu dịch tự do, thúc đẩy thương mại, đầu tư với các đối tác này. ASEAN cũng giúp Việt Nam thu hẹp khoảng cách phát triển, kết nối tốt hơn với các nền kinh tế phát triển trong và ngoài khu vực.

Về văn hóa-xã hội, ASEAN tạo ra rất nhiều khuôn khổ, cơ chế hợp tác trong các lĩnh vực khác nhau như: Giáo dục, y tế, phụ nữ, thanh niên, trẻ em, môi trường, văn hóa, thông tin, phát triển nông thôn, khoa học và công nghệ, lao động, với nhiều chương trình, dự án hợp tác đem lại lợi ích thiết thực cho Việt Nam.

Một lợi ích nữa mà hội nhập ASEAN đem lại là động lực thúc đẩy cải cách trong nước, phát triển nhân lực, đào tạo đội ngũ cán bộ trong công tác đối ngoại, nhất là cán bộ đa phương. Nhờ đó Việt Nam đã tạo dựng được nền tảng vững chắc cho các bước hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới.