Lợi Ích Kinh Tế Cá Nhân Là Gì / Top 8 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Nhatngukohi.edu.vn

Kinh Tế Tư Nhân Là Gì

Việc làm Phát triển thị trường

1. Kinh tế tư nhân – chìa khóa cho sự phát triển nền kinh tế Việt Nam

Khái niệm kinh tế tư nhân hiện nay vẫn còn rất nhiều các quan điểm trái chiều được đưa ra và chưa đi tới một sự thống nhất cụ thể nào. Tuy nhiên, xét về mặt kinh tế học thì kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế thuộc cơ cấu kinh tế của một quốc gia, được hình thành và phát triển dựa trên sự sở hữu của tư nhân về tư liệu sản xuất cũng như lợi ích cá nhân.

Đối tượng sở hữu kinh tế tư nhân đó là các cá thể hoặc một nhóm người thuộc về tư nhân đứng lên. Khái niệm này được đưa ra nhằm phân biệt với kinh tế nhà nước, do nhà nước làm chủ và thuộc quyền quản lý của nhà nước.

Kinh tế tư nhân là gì?

Dù hoạt động dưới hình thức nào thì kinh tế tư nhân cũng kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp tư nhân và phần lớn hoạt động vì mục đích lợi nhuận.

1.2. Vai trò của kinh tế tư nhân

Việt Nam trải qua hơn 30 năm hồi phục nền kinh tế, bao gồm cả kinh tế tư nhân, cho tới ngày nay thì kinh tế tư nhân được xem như là một phần không thể thiếu, thậm chí là cần phải thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa trong cơ cấu nền kinh tế. Bởi kinh tế tư nhân đã mang lại cho Việt Nam rất nhiều các thành tựu đáng kể

Phải khẳng định rằng kinh tế tư nhân hiện nay đang đóng góp rất tích cực vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) với con số vô cùng ấn tượng. Đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào cơ cấu GDP qua các năm luôn ở mức trên 43% GDP, cao khoảng gấp 2 lần so với khu vực kinh tế nhà nước và gấp rất nhiều lần so với khu vực đầu tư nước ngoài. Bằng chứng rõ nhất chính là sự tăng trưởng mạnh về số lượng các doanh nghiệp tư nhân, đạt hơn 110.000 doanh nghiệp (theo thống kê năm 2016). Đặc biệt hơn, thương hiệu của các doanh nghiệp tư nhân không chỉ dừng lại ở trong nội địa mà còn lan tỏa ra cả nước ngoài với những cái tên tuổi là Vingroup, Vinamilk, FPT, DOJI, Hòa Phát, Masan, Thế giới di động,…

1.2.2. Mang tới sự hiệu quả về đầu tư tài chính

Vấn đề hiệu quả đầu tư tài chính của các kinh tế tư nhân phải kể tới chính là sự thất bại hay làm việc không hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước. Có rất nhiều các công trình chậm tiến độ, dẫn đến đội vốn cao như dự án tuyến đường sắt trên cao Cát Linh – Hà Đông đã chậm tiến độ rất nhiều năm so với dự kiến, dẫn đến đội vốn đến 10 nghìn tỉ, và cho tới nay vẫn chưa hoàn thiện xong. Tuy nhiên, xét về các công trình của khu vực kinh tế tư nhân như tuyến đường trên cao ở đoạn đường Trường Chinh – dự án của kinh tế tư nhân là tập đoàn Vingroup, đã và đang hoàn thiện với tiến độ rất nhanh và được đánh giá hiệu quả hơn rất nhiều so với kinh tế nhà nước.

1.2.3. Nâng cao năng lực cạnh tranh

Việc mong muốn và khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân tự nâng cao năng lực cạnh tranh là rất cần thiết, đặc biệt là hòa chung trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế toàn cầu như hiện nay. Phải nói rằng, các doanh nghiệp nước ngoài rất mạnh mẽ cả về chất lượng lẫn số lượng, như vậy, nếu số lượng khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam quá nhiều sẽ dẫn đến tình trạng thiếu việc làm, doanh nghiệp tư nhân Việt Nam bị đè bẹp và tuyên bố phá sản. Xa hơn nữa, nền kinh tế Việt sẽ mất sự tự chủ và phải phụ thuộc vào các nguồn vốn nước ngoài nhiều.

Vai trò của kinh tế tư nhân

1.3. Sự khác biệt của kinh tế tư nhân với các khu vực kinh tế khác

Ở đây, chúng tôi sẽ nói tới 3 khu vực kinh tế chính, đó là:

Vậy, 3 khu vực này có gì khác nhau? Khu vực kinh tế tư nhân là khu vực do tư nhân làm chủ và sở hữu, làm việc và thực hiện theo hiến pháp và pháp luật. Còn khu vực kinh tế nhà nước là do nhà nước làm chủ. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là các doanh nghiệp ngoại quốc sẽ mang vốn của họ tới đất nước sở tại sản xuất và hoạt động kinh doanh.

2. Thực trạng nền kinh tế tư nhân hiện nay

2.1. Xu hướng phát triển nền kinh tế tư nhân trên thế giới

Hầu hết các quốc gia hiện nay, đặc biệt là những nền kinh tế phát triển, có quy mô và sức mạnh lớn như Mỹ hay Trung Quốc đều rất phát triển nền kinh tế tư nhân, chưa kể tới trong thời đại công nghệ 4.0, một số nền kinh tế mới ra đời như nền kinh tế số.

Phương châm của họ là hạn chế lại quyền lực và sức mạnh của các doanh nghiệp, công ty nhà nước cũng như đẩy mạnh các hoạt động doanh nghiệp tư nhân nhiều hơn. Điều này xuất phát từ những lí do đơn giản sau đây:

Thực trạng nền kinh tế tư nhân hiện nay

2.2. Tiềm năng phát triển kinh tế tư nhân tại Việt Nam

Theo thống kê số liệu, hiện Việt Nam có hơn 600 nghìn doanh nghiệp, trong đó có tới hơn 83% là doanh nghiệp tư nhân. Trong số này, có tới khoảng 96% là những doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ, 2% là những doanh nghiệp tư nhân có quy mô vừa và 2% là các doanh nghiệp tư nhân lớn.

Với tính chất là một đất nước đông dân, có cơ cấu dân số vàng, nên việc tạo ra các việc làm liên tục là rất cần thiết để hạn chế được tình trạng thất nghiệp cũng như các tệ nạn xã hội khác. Và khu vực kinh tế tư nhân đang làm rất tốt việc này khi mà các doanh nghiệp tư nhân đã tạo ra khoảng 1,2 triệu việc làm cho người lao động.

Do đó, việc thúc đẩy và phát triển các nền kinh tế tư nhân là điều mà các quốc gia cần phải làm, đặc biệt là những quốc gia đang phát triển và còn phải lệ thuộc khá nhiều vào các nền kinh tế lớn. Điều này giúp cho các doanh nghiệp tư nhân có cơ hội cạnh tranh, cọ xát và tích lũy kinh nghiệm, nâng cao năng lực cạnh tranh khi tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu cùng với các nền kinh tế khác.

3. Giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân tại Việt Nam

3.1. Đưa ra các chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp tư nhân

Giải pháp đầu tiên nhằm thúc đẩy sự mở rộng của các doanh nghiệp tư nhân chính là dành cho họ những chính sách ưu đãi như cắt giảm thuế, trợ cấp, đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ thành lập cơ sở kinh doanh,…

Việc đưa ra các chính sách ưu đãi hợp lí không chỉ thúc đẩy được các doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh mẽ hơn nữa mà còn hạn chế và giảm bớt được sự lệ thuộc vào các dòng vốn đầu tư nước ngoài.

3.2. Giảm bớt các thủ tục hành chính

Thủ tục hành chính Việt Nam luôn là những khó khăn mà bất kỳ các doanh nghiệp nào cũng gặp phải bởi sự phức tạp, mất thời gian và cầu kỳ. Vì vậy, việc giảm bớt các quá trình làm thủ tục hành chính sẽ giúp các doanh nghiệp tư nhân tiết kiệm được thời gian và tiền bạc.

Giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân tại Việt Nam

3.3. Thay đổi nhận thức về kinh tế tư nhân

3.4. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước

Mặc dù là sự sở hữu của cá thể tư nhân nhưng vẫn chịu sự quản lý của nhà nước, do đó nhà nước cần phải nâng cao hiệu quả việc quản lý, giám sát mức độ hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân, nhằm tránh các trường hợp tham nhũng.

Kinh Tế Chính Trị Quốc Tế Là Gì?

Định nghĩa một cách đơn giản, Kinh tế chính trị quốc tế nghiên cứu những vấn đề quốc tế không thể giải quyết được chỉ bằng những phân tích kinh tế, chính trị hoặc xã hội học đơn thuần. Kinh tế chính trị quốc tế là môn khoa học tập trung nghiên cứu những quan hệ phụ thuộc phức tạp chi phối các vấn đề quốc tế nổi bật nhất trong thế giới của chúng ta ngày nay.

Do những vấn đề quốc tế đương đại quan trọng không thể giải quyết được nếu chỉ dựa trên quan điểm của một môn khoa học độc lập hay bằng sự phân tích những chủ thể và hành động diễn ra ở một cấp độ cụ thể như cấp độ cá nhân, nhà nước hay hệ thống quốc tế; nên nhu cầu nghiên cứu Kinh tế chính trị quốc tế đang ngày càng tăng. Lĩnh vực nghiên cứu này giúp tháo bỏ những rào chắn chia cắt và cô lập những phương pháp phân tích truyền thống, áp dụng phương pháp nghiên cứu các vấn đề và sự kiện một cách toàn diện.

Trong chương này, mâu thuẫn giữa Mỹ và Trung Quốc về nhân quyền sẽ được đề cập đến như là trường hợp nghiên cứu điển hình trong kinh tế chính trị quốc tế. Trường hợp nghiên cứu này sẽ mô tả mâu thuẫn cơ bản giữa mối tương tác năng động của hai mặt của đời sống mà chúng ta gọi là “xã hội và cá thể”, “chính trị và kinh tế”, hay “nhà nước và thị trường”, những giá trị của cuộc sống và những cách mà những giá trị và lợi ích đó ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa quốc gia và chính trị.

Kinh tế chính trị quốc tế vừa là quá khứ vừa là tương lai của khoa học xã hội. Là quá khứ bởi lẽ kinh tế chính trị quốc tế chính là sự quay lại nghiên cứu nguồn gốc của khoa học xã hội, trước khi hành vi xã hội của loài người bị phân tán thành những lĩnh vực nghiên cứu độc lập như kinh tế học, khoa học chính trị, xã hội học, lịch sử và triết học. Là tương lai bởi lẽ trong thế giới phức tạp ngày nay, các vấn đề xã hội quan trọng nhất trở thành vấn đề mang tính chất quốc tế hoặc đa quốc gia mà chỉ có thể được hiểu rõ nhất thông qua việc nghiên cứu tổng hợp dựa trên nhiều công cụ hoặc quan điểm, chứ không thể chỉ dựa vào một công cụ hay quan điểm duy nhất.

Trong thế giới học thuật phức tạp với nhiều môn học và sự tương tác giữa các môn học, Kinh tế chính trị quốc tế có thể được hiểu theo những quan điểm trước đây của Susan Strange như là:

…một phạm vi rộng mở và bao la, là nơi mà bất kỳ người nào quan tâm tới hành vi con người trong xã hội có thể tự do nghiên cứu. Không có hàng rào cũng như biên giới nào giam hãm những nhà sử học trong lĩnh vực lịch sử, những nhà kinh tế trong lĩnh vực kinh tế. Các nhà khoa học chính trị không có quyền đặc biệt nào để chỉ viết về chính trị, cũng như những nhà xã hội học chỉ viết về những mối quan hệ xã hội.[1]

Rowland Maddock định nghĩa kinh tế chính trị quốc tế theo một cách khác:

… kinh tế chính trị quốc tế không phải là một môn học đặc biệt và bị gò bó trong khuôn khổ của môn học với phương pháp luận đã được định sẵn. Thay vào đó kinh tế chính trị quốc tế là một tập hợp các vấn đề cần phải nghiên cứu và có xu hướng bị bỏ quên bởi những môn học đã tồn tại từ lâu sử dụng những công cụ có sẵn.[2]

Kinh tế chính trị quốc tế không thể thay thế cho những môn khoa học xã hội độc lập khác. Môn học này sẽ gắn kết các môn học đó vào một lĩnh vực rộng mở không rào cản bó buộc, nhằm phục vụ tốt hơn cho nhu cầu của xã hội đầy phức tạp của chúng ta. Kinh tế chính trị quốc tế sẽ giúp chúng ta hiểu được thế giới của những ảnh hưởng lẫn nhau giữa con người với con người một cách toàn diện. Đây có thể là một tham vọng nhưng là cần thiết cho xã hội của chúng ta hôm nay và cho tương lai của những nhà lãnh đạo trong quá trình giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị và xã hội.

Tại sao chúng ta phải nghiên cứu môn kinh tế chính trị quốc tế? Có ba lý do chính sau: đây là môn học thú vị, quan trọng và hữu ích.

Thứ nhất, Kinh tế chính trị quốc tế là một môn học thú vị. Samuel Johnson lập luận rằng “một người chán ghét kinh tế chính trị quốc tế thì có nghĩa là anh ta chán ghét cuộc sống”. Kinh tế chính trị quốc tế là toàn bộ cuộc sống. Nhiều hành động và sự tương tác lẫn nhau đã gắn kết loài người trên toàn cầu. Nghiên cứu môn học này là cơ hội để tìm hiểu những vấn đề thú vị nhất trên thế giới.

Thứ hai, Kinh tế chính trị quốc tế là một môn học quan trọng. Kinh tế chính trị quốc tế mở ra những trang đầu tiên của mỗi ngày bởi lẽ những sự kiện kinh tế chính trị quốc tế ảnh hưởng đến tất cả chúng ta như là công dân của thế giới, là cư dân của các quốc gia dân tộc cụ thể, và là người tham gia hàng ngày vào hệ thống thị trường toàn cầu. Những sự kiện kinh tế chính trị quốc tế đang ảnh hưởng đến tất cả chúng ta và điều quan trọng là chúng ta cần hiểu rõ những sự kiện đó để biết được chúng ta phải gắn kết và có thể gây ảnh hưởng đến các vấn đề toàn cầu như thế nào.

Thứ ba, Kinh tế chính trị quốc tế là một môn học hữu ích. Những người chủ các đơn vị tổ chức tư nhân hay nhà nước đều đang tìm kiếm những người lao động có khả năng suy nghĩ rộng và tư duy phê phán, là người hiểu rõ những hệ thống phức tạp và luôn vận động, những người coi trọng sự ảnh hưởng của các điều kiện xã hội và những giá trị thay thế. Nói tóm lại, các ông chủ cần những người hiểu được bối cảnh quốc tế của hoạt động hàng ngày của loài người. Kinh tế chính trị học là một môn khoa học xã hội giải quyết trực tiếp nhất những nhu cầu đó.[3]

Kinh tế chính trị quốc tế trên lý thuyết và trên thực tế

Kinh tế chính trị quốc tế là gì? Tại sao cần phải nghiên cứu kinh tế chính trị quốc tế? Và nên nghiên cứu môn này như thế nào?

Cuối cùng, từ ” kinh tế” ( economy) hay ” kinh tế học” ( economics) đề cập đến việc phân bố các nguồn tài nguyên khan hiếm cho các mục đích sử dụng khác nhau và giữa các cá nhân thông qua quy trình thị trường phi tập trung. Khi phân tích dưới góc độ chính trị hay kinh tế người ta thường xem xét cùng một câu hỏi, tuy nhiên phân tích dưới góc độ kinh tế thường ít tập trung vào những vấn đề quyền lực nhà nước và lợi ích quốc gia mà chú trọng nhiều đến những vấn đề doanh thu, lợi nhuận và lợi ích cá nhân. Kinh tế chính trị kết hợp cả hai cách này để có thể nắm bắt được bản chất cơ bản của xã hội một cách đầy đủ hơn.

“Quốc tế”, “chính trị” và “kinh tế” không tác động lẫn nhau trong một môi trường chân không. Môi trường văn hoá và xã hội phải được xem xét cùng với những giá trị của các chủ thể khác nhau. Những quá trình phát triển lịch sử của các vấn đề quan trọng cũng không thể bị bỏ qua. Vì thế, kinh tế chính trị quốc tế nhằm làm sang tỏ sự tương tác phức tạp của những con người thực trong thế giới thực với những thái độ, tình cảm và lòng tin của họ. Ở một góc độ nào đó, nghiên cứu kinh tế chính trị quốc tế là nghiên cứu cuộc sống hiện đại.

Mỹ – Trung đạt được thoả thuận thương mại nhưng xung đột về vấn đề nhân quyền

Tại Washington, sau một ngày đàm phán liên tục, Tổng thống Clinton và chủ tịch Giang Trạch Dân cuối cùng đã thoả thuận được một số hiệp định thương mại quan trọng nhưng dường như lại làm rộng thêm khoảng cách giữa hai cường quốc về vấn đề nhân quyền.

Trung Quốc đồng ý mua máy bay dân sự của Mỹ trị giá 3 tỷ đô la Mỹ và chấp nhận mở đường cho các công ty Mỹ tham gia cạnh tranh bán lò phản ứng hạt nhân cho Trung Quốc.

Qua những cuộc gặp gỡ cấp cao, ông Giang nổi lên như là một nhân vật lớn trên thế giới, chỉ huy một trong những đội quân mạnh nhất và một trong những nền kinh tế mạnh nhất và phát triển nhanh nhất trên thế giới. Ông Giang làm chủ sân khấu cùng với tổng thống Clinton một cách bình đẳng, trong khi vẫn đang phải chịu đựng những lời chỉ trích nhức nhối về vấn đề nhân quyền ở Trung Quốc. Nhưng ông Giang vẫn nhận được sự kính trọng miễn cưỡng của Washington vì những áp lực mà ông này gây ra cho Washington [4].

John M.BroderTạp chí New York Times, 30/10/1997

Vấn đề thương mại và mậu dịch trong quan hệ hai nước khá phức tạp nhưng rất quan trọng. Tổng thống Bill Clinton phải chọn giữa hai lợi ích quốc gia trái ngược nhau. Lợi ích kinh tế của cả Trung Quốc và Mỹ sẽ được đảm bảo bằng việc cho phép hàng hoá Trung Quốc thâm nhập thị trường Mỹ, một hình thức tương tự như quy chế tối huệ quốc (MFN), mặc dù đôi khi ở Mỹ nó được gọi bằng cái tên “Quan hệ thương mại bình thường” (NTR)[5]. Tuy nhiên Trung Quốc đã từng vi phạm nhân quyền theo chuẩn mực của văn hoá phương Tây. Kể từ cao trào của Chiến tranh lạnh năm 1962, chính sách của Mỹ không dành quy chế tối huệ quốc cho những nước vi phạm các chuẩn mực về nhân quyền của Mỹ.[6]

Vì vậy vấn đề là liệu chính sách đối nội của Trung Quốc về nhân quyền có phải là nhân tố trong chính sách kinh tế của Mỹ đối với Trung Quốc hay không. Sự căng thẳng giữa lợi ích kinh tế của Mỹ và các nguyên tắc đạo đức của nước này đã gây nên mâu thuẫn giữa hai cường quốc – vấn đề mà tổng thống Mỹ Clinton và Chủ tịch nước Trung Quốc Giang Trạch Dân đã nhiều lần tìm cách giải quyết thông qua các cuộc đối thoại trực tiếp.

Để giải quyết vấn đề này, tổng thống Clinton và chủ tịch Giang đương nhiên trở thành chủ thể của kinh tế chính trị quốc tế. Họ phải đối mặt với vấn đề kinh tế quốc tế (thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ) nhưng cũng có dính líu tới chính trị quốc tế và chính trị nội bộ dựa trên những khác biệt văn hoá xã hội cơ bản giữa truyền thống nhân quyền ở Mỹ và Trung Quốc. Vấn đề chính trị của họ ở đây chính là làm thế nào để dung hoà lợi ích chung của hai bên giữa thương mại và quan điểm văn hoá nhân quyền đối lập nhau dù cho luật của Mỹ quy định hai vấn đề này phải gắn chặt với nhau. Tổng thống Clinton thừa nhận những tiến bộ của Trung Quốc trong một số lĩnh vực quan tâm, đó là điều kiện đạt được để có thể tuyên bố một số thỏa thuận kinh doanh giữa hai nước mà lâu nay chưa giải quyết được.

Khi xác định chính sách đối với Trung Quốc, tổng thống Clinton phải tính đến nhiều hình thức ảnh hưởng lẫn nhau giữa Trung Quốc và Mỹ, cũng như những ảnh hưởng đến các quốc gia khác. Clinton cần xem xét những quan điểm khác nhau về những hành động đó và những cách thức khác nhau sẽ ảnh hưởng đến người dân, hai dân tộc và hệ thống quốc tế; coi trọng những nhân tố lịch sử và sự khác biệt văn hoá sâu sắc.

Nhưng cuối cùng, tổng thống Clinton cũng phải chọn giải pháp nới rộng đặc quyền thương mại MFN cho Trung Quốc nhằm thoả mãn một vài lợi ích kinh tế và chính trị, mặc dù Trung Quốc rõ ràng không đạt được tiến bộ nào trong vấn đề nhân quyền. Đây chỉ là một quyết định tạm thời cho vấn đề này, mỗi năm sẽ phải xem xét lại theo luật liên bang hiện hành. Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa một bên là lợi ích kinh tế (tự do thương mại) và một bên là lợi ích quốc gia rộng hơn (cam kết lịch sử đối với quyền cá nhân con người) vẫn là vấn đề cơ bản. Khi một vấn đề quốc tế trở nên phức tạp và quan trọng mà không thể được xem như là một vấn đề đơn giản thuộc về kinh tế học, chính trị học, triết học hay xã hội học, khi đó vấn đề đó sẽ trở thành đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị quốc tế.

Kinh tế chính trị quốc tế giờ đây đang trở thành vấn đề thời sự. Chúng ta sống trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng, những vấn đề quan tâm hàng ngày đang trở thành những vấn đề toàn cầu. Khi sự phụ thuộc lẫn nhau tăng lên, những vấn đề kinh tế cũng trở thành những vấn đề chính trị và ngược lại.

Cách tiếp cận của kinh tế chính trị quốc tế đến khoa học xã hội là tổng hợp các phương pháp và quan điểm của kinh tế học, khoa học chính trị và xã hội học trên cơ sở hiểu rõ lịch sử, triết học cũng như đánh giá được tầm quan trọng của văn hoá. Sử dụng phương pháp tổng hợp này rất cần thiết, một phần do hiện nay các môn khoa học độc lập đang có xu hướng chỉ tập trung vào những yếu tố cụ thể của những vấn đề phức tạp, phần khác do những vấn đề trên thế giới phụ thuộc lẫn nhau, các vấn đề có xu hướng vượt quá ranh giới tri thức của môn khoa học cụ thể.

Khi nghiên cứu sự phân công lao động, các học giả chỉ tập trung vào một giới hạn hẹp các phương pháp và những vấn đề. Điều này cho phép có sự chuyên biệt hoá tri thức, tuy nhiên lại dẫn đến sự mù quáng do chỉ dựa vào một mặt của một vấn đề đa hướng. Kinh tế chính trị quốc tế áp dụng những phương pháp và kiến thức của các môn khoa học độc lập và tập hợp lại thành một cách phân tích tổng hợp.

Kinh tế học vi mô: Một nhà kinh tế học vi mô sẽ nhìn vào chính sách thương mại ảnh hưởng như thế nào đến quyết định của cá nhân người tiêu dùng, các nhà sản xuất và các nhà đầu tư; và những quyết định của họ sẽ ảnh hưởng như thế nào đến các thị trường khác nhau. Nhà kinh tế học vi mô có thể chỉ chú ý đến cá nhân nào thắng cuộc hay thua cuộc từ việc Mỹ cho Trung Quốc hưởng quy chế MFN, và cố gắng tính toán lợi nhuận thu được từ việc được hưởng quy chế đó sẽ làm tăng hiệu năng sản xuất và thương mại.

Kinh tế học vĩ mô: Một nhà kinh tế học vĩ mô sẽ xem xét ảnh hưởng tổng thể về mặt kinh tế của MFN đối với nước mình và các nước đối tác thương mại khác của mình. Nhà kinh tế học vĩ mô sẽ dự báo ảnh hưởng của chính sách MFN đến cán cân thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ; đến sản xuất, doanh thu, tỉ lệ tăng trưởng ở hai nước; cũng như những thay đổi trong thương mại với Trung Quốc sẽ ảnh hưởng đến các nước khác như Nhật Bản, Thái Lan.

Nhà nghiên cứu chính trị Mỹ sẽ tính đến yếu tố chính trị nội bộ ảnh hưởng như thế nào đến chính trị quốc tế và ngược lại. Họ có thể xem xét việc các nhóm lợi ích như công đoàn, hiệp hội ngân hàng và tập đoàn đa quốc gia bị ảnh hưởng bởi quy chế MFN như thế nào, và sau đó cố gắng nghiên cứu các nhóm này sẽ tìm cách gây ảnh hưởng chính trị đối với tổng thống và quốc hội ra sao.

Quan hệ quốc tế: Các nhà khoa học chính trị lại thường nghiên cứu chính trị học diễn ra trên ba cấp độ: cấp độ cá nhân, cấp độ nhà nước và cấp độ hệ thống quốc tế. Các nhà khoa học chính trị chuyên về quan hệ quốc tế sẽ tập trung vào nhà nước quốc gia và bản chất của mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau với điều kiện có tính đến bản chất của hệ thống quốc tế. Trong quan hệ quốc tế chúng ta có thể xem xét quy chế MFN ảnh hưởng như thế nào đến an ninh của Mỹ và Trung Quốc. Ví dụ Mỹ có thể tìm cách nâng cao an ninh quốc gia của mình bằng cách khuyến khích đẩy mạnh phong trào dân chủ ở Trung Quốc, điều này đòi hỏi chính phủ Trung Quốc phải tự do hoá các chính sách nhân quyền. Nền dân chủ ở Trung Quốc được cho rằng sẽ ít đe doạ đến lợi ích quốc gia của Mỹ hơn là một chính phủ Trung Quốc độc tài.

Tổ chức quốc tế: Các nhà khoa học nghiên cứu về các tổ chức quốc tế có thể sẽ chú ý đến mối tương tác kinh tế và chính trị trong quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc diễn ra trong một môi trường phức tạp có nhiều chủ thể. Có những tổ chức quốc tế như Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) cũng tham gia vào vấn đề này cũng như một loạt các tổ chức phi chính phủ (NGOs) gây ảnh hưởng đến chính phủ hai nước và áp đặt những điều kiện cho cuộc đàm phán của hai bên.

Xã hội học: Một nhà xã hội học có thể sẽ quan tâm tới mối quan hệ giữa các tầng lớp xã hội tham gia như thế nào vào cuộc xung đột này. Liệu sự phát triển thương mại với Trung Quốc có vì lợi ích của tầng lớp lao động – giai cấp vô sản – ở Mỹ hay không? Hay điều đó sẽ chỉ đem lại lợi ích cho tầng lớp tư sản? Những vấn đề như chủng tộc, sắc tộc và giới có được tính đến trong vấn đề này hay không?

Nhân học: Một nhà nhân học sẽ tập trung vào những khác biệt văn hoá giữa Mỹ và Trung Quốc, văn hoá sẽ có vai trò như thế nào trong cuộc xung đột này. Mỹ xác định vấn đề nhân quyền như là quyền của các cá nhân trong khi Trung Quốc lại xem nhân quyền là quyền của cả nhóm hay của xã hội. Các nhà nhân học có thể cho rằng vấn đề này là sự xung đột văn hoá, hay giá trị văn hoá, chứ không phải là giữa các quốc gia hay giữa các nền kinh tế. Họ cũng xem yếu tố văn hoá có thể bị ảnh hưởng bởi bất kỳ một giải pháp kinh tế hay chính trị nào.

Lịch sử: Nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc có thể chỉ ra rằng chính phủ đế quốc phương tây đã có một lịch sử lâu dài muốn gây ảnh hưởng đến chính sách của Trung Quốc – nói chung là không phải vì chính lợi ích của Trung Quốc. Sự phản ứng cứng rắn của Trung Quốc đối với chính sách MFN của Mỹ bắt nguồn từ những kinh nghiệm đau thương trong lịch sử. Mặt khác, nhà lịch sử ngoại giao của Mỹ có thể yêu cầu chúng ta phải nhìn lại chức năng chính của chính sách nhân quyền MFN – đó là để buộc chính phủ cộng sản Xô Viết hạn chế sự đàn áp đối với những người Do thái Xô Viết – và thành công tương đối của chính sách này có thể có đóng góp gì đối với sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô.

Vì vậy, nguồn gốc kiến thức của kinh tế chính trị quốc tế là sự xóa bỏ những biên giới áp đặt nhưng mang tính truyền thống về tìm hiểu kiến thức và phân tích chính sách. Vì vậy kinh tế chính trị quốc tế vừa mới vừa cũ. Đây là môn khoa học mới do sử dụng phương pháp phân tích đa cấp liên ngành mà chỉ gần đây mới được kết hợp với những cấu trúc thể chế để cho phép và khuyến khích một cách có hệ thống những hành động này, dưới dạng các khóa học, các chuyên ngành và các chương trình đào tạo đại học trong kinh tế chính trị quốc tế.

Tuy nhiên, đây lại là môn học cũ bởi lẽ vào Thế kỷ 19-20, hiện tượng phổ biến trong giới học thuật là sự phân chia các môn khoa học xã hội thành những môn độc lập. Trước thời gian đó, việc chia nhỏ kiến thức thành những môn nghiên cứu chi tiết được xem là không cần thiết hoặc là không khôn ngoan. Sự nghiên cứu bao quát những vấn đề xã hội được đặt dưới một cái tên chung là kinh tế chính trị. Kinh tế chính trị quốc tế ngày nay là sự tiếp nối học thuật của phương pháp nghiên cứu không có giới hạn bắt đầu từ kinh tế chính trị hơn hai thế kỷ qua.

Mua bán thông tin đa chiều

Trong cuốn sách nổi tiếng của mình về toàn cầu hóa “Chiếc Lexus và cây ô liu” Thomas L.Friedman giải thích nhu cầu của công việc buộc ông phải bắt đầu suy nghĩ về thế giới theo một cách rộng và thống nhất như thế nào. Cách mô tả của Friedman trong cuốn sách đó chính là cách suy nghĩ theo lối của kinh tế chính trị quốc tế, tuy nhiên tác giả đã không bao giờ gọi như vậy.[9]

Friedman đã sớm thành thạo trong công việc gọi là “mua bán thông tin”. Trong thế giới tài chính, mua bán (arbitrage) là một hành động mua một hàng hóa nào đó ở một thị trường này và bán lại ở thị trường khác – lợi nhuận thu được từ việc tranh thủ những chênh lệch giá cả ở những thị trường khác nhau. Mua bán thông tin theo như cách Friedman thực hiện là khả năng kiếm lợi từ việc sử dụng những khái niệm và học thuyết từ một lĩnh vực học thuật (chẳng hạn lịch sử) để giải thích những lực lượng hoặc sự kiện trong lĩnh khác (như chính trị học hay kinh tế học)[10].

Theo như cách Friedman giải thích, mua bán thông tin là:

… giống như đeo một cặp kính mới và bỗng nhiên nhìn thế giới qua lăng kính bốn chiều. Tôi đã nhận ra những bài phóng sự mà trước đây chưa bao giờ tôi xem chúng như là những bài phóng sự. Tôi đã thấy bàn tay vô hình và những còng xích đã kìm hãm những nhà lãnh đạo và các dân tộc làm những việc mà trước đây tôi chưa bao giờ hình dung ra được[11].

Đây chính là một sự hổ thẹn mà Friedman đã tiên phong gắn cho một cái tên khá nặng nề – mua bán thông tin đa chiều – cho lối suy nghĩ rất thú vị và hữu ích bởi vì một thuật ngữ đã từng tồn tại và nắm bắt chính xác bản chất của điều ông đang làm: kinh tế chính trị quốc tế.

Kinh tế chính trị quốc tế không phải cặp kính 4 chiều của Friedman cho ta thấy rõ những mối liên kết bất ngờ nhưng cũng làm sáng tỏ hơn những mối quan hệ vốn dĩ rất mù mờ. Giống như bất kỳ một cặp kính mắt mới nào, phải mất một thời gian bạn mới quen được với kinh tế chính trị quốc tế, nhưng một khi bạn đã hài lòng với môn này, bạn sẽ không bao giờ lại có thể nhìn thấy thế giới theo cách cũ được nữa.

Những yếu tố cơ bản của Kinh tế chính trị quốc tế

Kinh tế chính trị quốc tế nghiên cứu các vấn đề theo phương pháp tiếp cận đa cấp liên ngành như vừa phân tích ở trên. Định nghĩa như vậy chưa thực sự rõ ràng chính xác. Susan Strange, người đầu tiên nghiên cứu kinh tế chính trị quốc tế hiện đại tại trường Kinh tế Chính trị Luân Đôn, đã định nghĩa về Kinh tế chính trị quốc tế rõ ràng hơn:

… kinh tế chính trị quốc tế xem xét các dàn xếp kinh tế, chính trị và xã hội ảnh hưởng đến hệ thống sản xuất, trao đổi và phân phối toàn cầu và tập hợp các giá trị phản ánh trong đó. Những dàn xếp đó không phải được quy định một cách rõ ràng cũng như không phải là kết quả ngẫu nhiên của cơ hội ẩn, mà là kết quả của những quyết định của con người được đưa ra trong bối cảnh các định chế do con người quy định và các bộ luật lệ tự ban hành.[12]

Những yếu tố trong nghiên cứu Kinh tế chính trị quốc tế chính là những yếu tố của cuộc sống, các định chế chính trị, kinh tế và xã hội tạo nên điều kiện sống cho chúng ta, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu. Có những người giàu có hơn người khác hoặc cũng có những quốc gia mạnh hơn quốc gia khác. Những điều kiện này một phần là kết quả của các cấu trúc hoặc dàn xếp toàn cầu trong việc sản xuất, trao đổi và phân phối các nguồn lực kinh tế, chính trị và xã hội. Những cấu trúc kinh tế chính trị quốc tế hình thành một khuôn khổ hữu ích nghiên cứu các vấn đề kinh tế chính trị quốc tế.

Nhiều nghiên cứu của kinh tế chính trị quốc tế tập trung vào sự tác động lẫn nhau của hai định chế xã hội rất quan trọng đó là nhà nước và thị trường; bản chất mối tương tác của các định chế này trong hệ thống quốc tế (“luật chơi quốc tế”). Robert Gilpin đã định nghĩa kinh tế chính trị là “lĩnh vực nghiên cứu” phân tích các vấn đề nổi lên từ sự tồn tại song song và mối tương tác năng động giữa “nhà nước” và “thị trường” trong thế giới hiện đại”[13].

Nhà nước là nơi tập hợp các hành động và quyết định tập thể. Nhà nước thường ngụ ý đến những định chế chính trị của quốc gia dân tộc đương đại, một khu vực địa lý với hệ thống chính phủ tự trị và tương đối cố kết trải dài trên toàn khu vực đó. Quốc gia dân tộc là một thực thể hợp pháp có lãnh thổ và dân cư riêng, với một chính phủ có khả năng thực hiện chủ quyền.Ví dụ như Pháp có lãnh thổ của Pháp, người dân Pháp và chính phủ Pháp, và các chính sách của Pháp, phụ thuộc vào bối cảnh. Tuy nhiên chúng ta cũng nên nhìn nhận nhà nước một cách rộng hơn, theo nghĩa đây là một phạm trù của những hành vi chính trị và tập thể diễn ra ở nhiều cấp độ. Liên minh châu Âu (EU) không phải là một quốc gia dân tộc, đó là một tổ chức các quốc gia dân tộc. Nhưng ở một mức độ nào đó, EU lại đưa ra những lựa chọn và chính sách ảnh hưởng đến toàn bộ nhóm các dân tộc và công dân của họ, thể hiện quyền sở hữu của một nhà nước.

Thị trường là nơi tập hợp các hành động và quyết định cá nhân. Thị trường có nghĩa là các định chế kinh tế của chủ nghĩa tư bản đương đại. Thị trường là một phạm vi hành động của con người bị thống trị bởi những lợi ích cá nhân và bị quy định bởi sức mạnh cạnh tranh. Mặc dù một thị trường đôi khi là vị trí địa lý (chẳng hạn như Thị trường chứng khoán New York hay thị trường Pike Place ở Seatle), nhưng thông thường đó là quyền lực. Nghĩa là quyền lực của thị trường đã tạo động lực và điều kiện cho hành vi của cá nhân con người. Các cá nhân bị chỉ huy bởi động lực của lợi ích cá nhân để sản xuất và cung cấp các hàng hóa dịch vụ khan hiếm hoặc để tìm kiếm những sản phẩm mua bán hoặc những công việc lương cao. Họ bị điều khiển bởi sức mạnh cạnh tranh của thị trường nên phải sản xuất những sản phẩm tốt hơn, rẻ hơn và hấp dẫn hơn.

Mặc dù nhà nước và thị trường là những hệ thống tổ chức xã hội phức tạp, nhưng định nghĩa kinh tế chính trị như vậy sẽ dễ hiểu hơn. Xã hội chứa đựng cả những nhân tố nhà nước và thị trường phản ánh lịch sử, văn hóa và những giá trị của hệ thống xã hội.

Sự tồn tại song song của nhà nước (chính trị học) và thị trường (kinh tế học) tạo nên những mâu thuẫn cơ bản, hình thành nên đặc trưng của kinh tế chính trị. Nhà nước và thị trường không phải lúc nào cũng xung đột lẫn nhau, nhưng chúng thường chồng chéo lên nhau ở một mức độ thể hiện rõ sự xung đột đó. Những mâu thuẫn này là do những lợi ích và giá trị khác nhau có thể được giải quyết theo những cách khác nhau ở những thời điểm khác nhau, nhưng những mâu thuẫn cơ bản vẫn còn tồn tại và xuyên suốt lịch sử loài người. Sự tương tác giữa nhà nước và thị trường rất năng động, có nghĩa là sự tương tác đó thay đổi theo thời gian. Cụ thể là nhà nước tác động đến thị trường và ngược lại thị trường cũng ảnh hưởng đến nhà nước, thường xuyên thay đổi mô hình lợi ích và giá trị mà các nhà kinh tế chính trị phải nghiên cứu.

[7] Broder, “.S. and China”

Kinh Doanh Quốc Tế Là Gì

1. Kinh doanh quốc tế là gì?

Kinh doanh quốc tế bao gồm các hoạt động thương mại diễn ra để thúc đẩy việc chuyển giao hàng hóa, tài nguyên, con người, dịch vụ, ý tưởng và công nghệ trên toàn thế giới. Các hoạt động này được thực hiện rộng rãi giữa các quốc gia, giữa các vùng lãnh thổ khác nhau nhằm thoả mãn các mục tiêu kinh doanh của các cá nhân, doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế.

2. Lợi ích và khó khăn của kinh doanh quốc tế

Lợi ích của kinh doanh quốc tế

Các quốc gia có thể tận dụng lợi thế của đất nước mình một cách triệt để như đất đai, nguồn lực, lao động và vốn hợp lý. Một quốc gia có thể xuất khẩu những sản phẩm hoặc dịch vụ nổi bật, hay dồi dào đến các quốc gia khác không có hoặc hiếm có hay cầu nhiều hơn cung.

Cho phép các nước tận dụng chuyên môn, thế mạnh và các yếu tố kỹ thuật trong sản xuất để cung cấp hàng hóa và dịch vụ trên thị trường quốc tế, góp phần tăng sự đa dạng của hàng hóa và dịch vụ có sẵn trên thị trường.

Giúp tăng tính cạnh tranh trên thị trường trong nước và tạo thêm những cơ hội mới cho thị trường nước ngoài. Việc này còn khuyến khích các công ty trở nên sáng tạo và có hiệu quả hơn trong việc sử dụng các nguồn lực.

Kinh doanh quốc tế còn tạo nhiều công ăn, việc làm cho nhiều người lao động tại quốc gia được đầu tư.

Những người tiêu dùng se được sử dụng nhiều loại hàng hóa và dịch vụ đa dạng khác nhau. Người dân các nước có thể nâng cao mức sống và có nhiều cơ hội hơn để tiếp cận với những ý tưởng, thiết bị, sản phẩm, dịch vụ và công nghệ mới.

Khó khăn của kinh doanh quốc tế

Khó khăn về môi trường kinh tế khi mỗi quốc gia có 1 nền kinh tế khác nhau bao gồm phát, đang phát triển hoặc kém phát triển hơn.Thêm vào đó mỗi nền kinh tế còn chịu ảnh hưởng lớn từ nền giáo dục, các cơ sở hạ tầng, công nghệ và dịch vụ chăm sóc sức khỏe khác nhau.

Khó khăn về môi trường chính trị vì mối quan hệ giữa chính phủ và các doanh nghiệp, chính sách của mỗi quốc gia. Có một số nước không cho các doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư, khai thác,… Một số quốc gia còn coi các doanh nghiệp nước ngoài là doanh nghiệp bóc lột hoặc chiếm dụng thị trường nhằm mục đính riêng.

Môi trường cạnh tranh liên tục thay đổi theo các môi trường khác như kinh tế, chính trị hay văn hóa. Cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài về giá, chất lượng, công nghệ, chăm sóc khách hàng…

Lợi Ích (Utility) Trong Kinh Tế Là Gì? Đặc Điểm Và Phân Loại

Khái niệm

là một thuật ngữ trong kinh tế dùng để chỉ sự hài lòng nhận được từ việc tiêu thụ hàng hóa hoặc dịch vụ. Các lí thuyết kinh tế dựa trên sự lựa chọn hợp lí thường cho rằng người tiêu dùng sẽ cố gắng tối đa hóa lợi ích của họ. Lợi ích kinh tế của hàng hóa hoặc dịch vụ rất quan trọng, bởi vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu, và do đó ảnh hưởng đến giá cả của hàng hóa hoặc dịch vụ đó.

Trên thực tế, lợi ích của người tiêu dùng là không thể đo lường và định lượng. Tuy nhiên, một số nhà kinh tế tin rằng họ có thể gián tiếp ước tính đâu là lợi ích cho hàng hóa hoặc dịch vụ kinh tế bằng cách sử dụng các mô hình khác nhau.

Đặc điểm và phân loại lợi ích

Định nghĩa lợi ích trong kinh tế học bắt nguồn từ khái niệm về tính hữu dụng. Một mặt hàng kinh tế mang lại lợi ích để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Có nhiều trường phái khác nhau về cách mô hình hóa lợi ích kinh tế và đo lường mức độ hữu dụng của hàng hóa hoặc dịch vụ.

Khái niệm lợi ích trong kinh tế học lần đầu tiên được đặt ra bởi nhà toán học người Thụy Sĩ nổi tiếng thế kỉ 18 Daniel Bernoulli. Kể từ đó, lí thuyết kinh tế đã phát triển, dẫn đến nhiều loại hình lợi ích kinh tế.

1. Lợi ích thông thường

Các nhà kinh tế đầu tiên của Tây Ban Nha trong những năm 1300 và 1400 đã mô tả giá trị kinh tế của hàng hóa xuất phát trực tiếp từ tính hữu dụng của nó và dựa trên lí thuyết về giá cả và trao đổi tiền tệ. Quan niệm về lợi ích này không được định lượng, mà là một tài sản định tính của một mặt hàng kinh tế.

Các nhà kinh tế sau này, đặc biệt là những người thuộc Trường phái Áo, đã phát triển ý tưởng này thành một lí thuyết lợi ích thông thường. Lí thuyết này đề cập đến việc các cá nhân có thể xếp hạng tính hữu dụng của các mặt hàng kinh tế khác nhau, tức là có thể so sánh mặt hàng nào hữu dụng hơn mặt hàng nào.

Lí thuyết lợi ích thông thường rất hữu ích trong việc giải thích qui luật lợi ích cận biên giảm dần và qui luật cung cầu.

2. Lợi ích đo được

Đối với nhà kinh tế Bernoulli và các nhà kinh tế khác, lợi ích được mô hình hóa như một tài sản định lượng hoặc chính yếu của mặt hàng kinh tế mà một người tiêu thụ. Để giúp đo lường mức độ hài lòng định lượng này, các nhà kinh tế giả định một đơn vị đo lường sử dụng để thể hiện mức độ hài lòng về tâm lí mà một hàng hóa hoặc dịch vụ cụ thể tạo ra cho nhiều người trong các tình huống khác nhau. Việc dùng đơn vị đo lường này có thể giúp các nhà kinh tế thể hiện các mối quan hệ thông qua các biểu tượng và tính toán trong toán học.

(Theo Investopedia)

Hoàng Vy