Đặc Điểm Kinh Tế Xã Hội Là Gì / Top 18 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Nhatngukohi.edu.vn

Dân Cư Và Đặc Điểm Kinh Tế, Văn Hóa, Xã Hội

         1.     Quá trình hình thành dân cư

Từ nửa cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX, khi bờ cõi phương Nam của đất nước được mở rộng và định hình, chúa Nguyễn đã chiêu tập nhiều bộ phận dân cư khác nhau ở Trung Trung Bộ, mà tập trung chủ yếu ở phủ Quảng Bình, Quảng Nam vào khẩn hoang miền Nam. Bên cạnh đó, cũng có một bộ phận dân cư khác từ Đàng Ngoài vì bất đắc chí, cám cảnh triều đình Vua Lê – Chúa Trịnh mà vào Đàng Trong sinh cơ, lập nghiệp.

Trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ, điều kiện sinh hoạt rất khó khăn gian khổ, toàn xã Ninh Phước lại trong vùng kháng chiến, thường xuyên tiễn con em lên đường nhập ngũ, nhiều người tập kết ra Bắc sau năm 1954 nên dân số biến động không nhiều. Trong kháng chiến chống Pháp, năm 1948, Pháp cưỡng ép Nhân dân Mỹ Giang phải dời đi sinh sống nhiều nơi khác. Đến năm 1962, sau khi Đồng Khởi, lật đổ chính quyền tại địa phương, địch dùng thủ đoạn xúc phần lớn dân Ninh Tịnh, Ninh Yển lên Động Dương rồi Ba Làng; dân Mỹ Giang, Đầm Vân vào Nha Trang, Vĩnh Xương, chỉ còn vài hộ dân kiên quyết bám trgày hòa bình lập lại, nhân dân từ các khu tập trung của địch trở về quê hương làm ăn sinh sống, dân số bắt đầu tăng trở lại so với trước năm 1962. Đặc biệt từ khi nhà máy đóng tàu Hyundai-Vinashin được xây dựng, Tỉnh lộ 1B được đưa vào hoạt động, dân số tăng dần, có thêm dân từ các tỉnh khác đến.

Đến vùng đất mới vốn còn hoang sơ, nhân dân Ninh Phước đã biết đoàn kết, tương trợ giúp đỡ, cùng nhau đấu tranh với thiên nhiên để sinh tồn và tạo dựng được một cộng đồng làng xã ổn định. Trải qua nhiều thế kỷ lao động và chiến đấu, nhân dân Ninh Phước đã đổ không biết bao nhiêu công sức, mồ hôi, xương máu để xây dựng và bảo vệ quê hương, tạo lập những điều căn cơ cho các thế hệ nối tiếp nhau kế thừa và phát triển.

Theo số liệu điều tra đến năm 2011, dân số của xã Ninh Phước là 6818 người, phân bố trên 3 thôn: Thôn Mỹ Giang, Ninh Yển và Ninh Tịnh. Mật độ dân số là 186,3 người/km2. Tổng số người trong độ tuổi lao động chiếm 60,78% dân số trong xã. Lao động nông nghiệp chiếm 75,8%; lao động công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chiếm 19,3 % và lao động dịch vụ thương mại là 9,55%. Lao động qua đào tạo chiếm 20% tổng số lao động đang làm việc.

Dân cư nông nghiệp chiếm 2/3, còn lại là ngư nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Trong 3 thôn, có 2 thôn là Mỹ Giang và Ninh Yển với 864 hộ với 3.870 nhân khẩu dự kiến sẽ được di dời lên khu vực tái định cư Ninh Thủy và Xóm Quán ( xã Ninh Thọ) để phục vụ cho dự án điện lực Nam Vân Phong, sẽ còn lại thôn Ninh Tịnh với 678 hộ, 2.948 nhân khẩu.

2. Các hoạt động kinh tế

Cư dân Mỹ Giang, Ninh Tịnh, Ninh Yển có các hoạt động kinh tế khá đa dạng, chủ yếu dựa vào các sản vật từ núi rừng Hòn Hèo và từ vùng biển ven bờ giàu nguồn lợi hải sản. Họ cần cù, chịu thương chịu khó, tận dụng những điều kiện tự nhiên vừa ưu đãi vừa khắc nghiệt để mở đất, lập làng, tạo ra những ngành nghề đáp ứng nhu cầu của bản thân và gia đình.

Dựa vào rừng núi Hòn Hèo, những cư dân xưa đã đốn gỗ làm nhà, đóng các vật dụng gia đình, làm củi, bán cho các vùng khác; săn bắt thú rừng làm thịt… còn chủ yếu để cống nộp quan lại hoặc đóng các thứ thuế do triều đình nhà Nguyễn quy định, đó là các thứ mà nay còn lưu trong sử sách như sáp ong, mật ong, kỳ nam, trầm hương, gỗ mun, mây hoa, nhung hươu, cọp, gấu, nai. Sau này, do rừng Hòn Hèo bị khai thác cạn kiệt nên Nhà nước siết chặt lại, hoạt động này bị hạn chế dần, hiện nay hầu như đã ngưng hẳn.

Thiên nhiên Ninh Phước hùng vĩ nhưng khắc nghiệt, đất đai kém màu mỡ, diện tích lại ít, chủ yếu là đồi núi nên khởi đầu nhân dân vừa làm nghề biển vừa làm ruộng với số đất thổ, ruộng gieo hạn hẹp, sát chân núi, chủ yếu là các giống lúa gòn, lúa mướp… năng suất thấp. Ở đây phổ biến là phát rẫy trên đồi với cách trồng trọt đốt rừng chọt lỗ trỉa bắp, trồng đậu sản lượng không cao, lương thực không đủ còn phải ăn thêm gạo mua ở Nha Trang. Ở rẫy có giống bắp chu ly thơm ngon nổi tiếng được thương lái đặt mua; ngoài ra nhân dân còn trồng thuốc lá cung cấp cho phía Vĩnh Xương, Nha Trang hằng năm với số lượng không nhỏ. Tuy nhiên các giống cây ngày nay không còn trồng hoặc đã bị mất giống. Ngoài các loại cây lương thực, người dân còn trồng thêm các cây hoa màu như mì, đậu phụng, khoai lang, tỏi và từng có thời điểm trồng cây thuốc lá… Trong đó, vài năm gần đây, cây tỏi được xem là loại cây trồng chủ yếu, giúp người dân trong xã thực sự thoát nghèo một cách bền vững.

Bên cạnh trồng trọt, nghề chăn nuôi gia cầm, gia súc cũng phát triển, hầu như nhà nào cũng nuôi gia súc như heo, trâu, bò, dê, gia cầm như gà, vịt, ngan, ngỗng… Các loại gia súc, gia cầm này chủ yếu để phục vụ cho nhu cầu của gia đình cũng như lễ lạt, hội hè. Đặc biệt, trên đảo Mỹ Giang có đồng cỏ rộng 10ha dùng để chăn thả gia súc. Vài năm trở lại đây, việc chăn nuôi gia súc trên các khu vực đồi núi được đẩy mạnh, các loại gia súc đã trở thành hàng hóa thương phẩm của người dân Ninh Phước.

Về ngư nghiệp, do vị trí nằm sát biển nên ngư nghiệp cũng được chú ý phát triển với các nghề đăng, nghề câu, nghề lưới cá, giã cào là những nghề có truyền thống từ xa xưa, nhất là đối với người dân Mỹ Giang. Buổi ban đầu lập làng, nhân dân chỉ có thuyền nan, thuyền buồm để đánh bắt ở các ngư trường ven bờ với những dụng cụ như lưới đăng, chong mành, chài, câu rớ. Hiện tại, đội tàu của xã đã được hiện đại hóa với hàng trăm chiếc ghe, xuồng bằng máy với gần 200 chiếc. Tuy nhiên, tàu chủ yếu có công suất nhỏ khai thác ven bờ, hải sản đánh bắt chủ yếu là tôm hùm, cá, mực, nhum, ốc các loại cung cấp cho Nha Trang.

Bên cạnh đó, trong vài chục năm trở lại đây, nghề nuôi tôm giống, ốc hương giống tại thôn Ninh Tịnh có sự phát triển mạnh mẽ. Khu vực này đã và đang trở thành một trong những “thủ phủ” về giống thủy sản của cả nước.

Bên cạnh các hoạt động nông nghiệp, trên địa bàn xã còn có nhiều khu du lịch cao cấp như: Jungle Beach, Wild Beachs, Vịnh Kim Lan…

Cùng với định hướng phát triển khu vực vịnh Vân Phong thành khu kinh tế tổng hợp và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt quy hoạch vùng Nam Phú Yên – Bắc Khánh Hòa đến năm 2023, theo đó, sẽ phát triển toàn khu vực trong đó có xã Ninh Phước, thành khu cảng trung chuyển dầu và sản phẩm dầu; phát triển không gian liên kết về kinh tế thương mại tự do quốc tế, phát triển các loại hình công nghiệp gắn với cảng biển và dịch vụ thương mại kho bãi; xây dựng các tuyến du lịch biển, núi, tham quan di tích…Xã Ninh Phước nằm trong khu vực phát triển của Nam Vân Phong và đang phấn đấu đến năm 2023 hoàn thành các tiêu chí xây dựng nông thôn mới.

Xã được lựa chọn làm vị trí triển khai nhiều dự án công nghiệp. Hiện tại đang có nhà máy đóng tàu Hyun-dai-Vinashin, Kho xăng dầu ngoại quan Vân Phong. Đặc biệt, nhà máy đóng tàu Hyundai-Vinashin (HVS) đã tạo ra biến đổi lớn về diện mạo kinh tế – xã hội của người dân Ninh Phước. Được thành lập năm 1996, chính thức đi vào hoạt động năm 1999, trong hành trình 23 năm phát triển của mình, HVS ngày càng khẳng định uy tín không chỉ trong thị trường khu vực mà còn trên thế giới về độ tin cậy, tính chuyên nghiệp trong lĩnh vực đóng mới tàu biển với 853 tàu được sửa chữa và trên 100 tàu được đóng mới. Đến năm 2023, tổng số lao động trong công ty hơn 5.000 người, trong đó HVS trên 3.000 người và thầu phụ gần 2.000 người; doanh thu hàng năm đạt hơn 400 triệu USD (tính đến năm 2023). Từ khi nhà máy đi vào hoạt động, người dân Ninh Phước có thêm các hoạt động kinh tế mới, mà chủ yếu là dịch vụ buôn bán, tạp hóa, dịch vụ lưu trú…

Trong những năm tiếp theo sẽ triển khai thêm các dự án công nghiệp khác như Nhà máy nhiệt điện Vân Phong 1, trên diện tích đất của 2 thôn Mỹ Giang và Ninh Yển. Đây sẽ là thuận lợi lớn cho sự phát triển của địa phương.

3. Hoạt động giao thông – liên lạc

Trước năm 2003, xã Ninh Phước chỉ có tuyến đường mòn, chỉ có thể giao thông bằng những loại phương tiện thô sơ như xe đạp, xe bò. Đến năm 2003, xã Ninh Phước có tuyến Tỉnh lộ 1B chạy qua trung tâm xã theo hướng Bắc Nam nối trung tâm của thị xã Ninh Hòa với xã Ninh Phước. Đường Tỉnh lộ 1B đã tạo động lực quan trọng nhằm phát triển kinh tế Ninh Phước, giúp quê hương “thay da, đổi thịt”. Bên cạnh đó, hệ thống giao thông nông thôn nội xã được nâng cấp, bê tông hóa tạo thêm nhiều điều kiện đi lại thuận lợi cho nhân dân. Ngoài ra, hệ thống giao thông của xã còn bao gồm đường trục thôn xóm và đường trục đồng ruộng. Xã hiện được cung cấp điện từ lưới điện trung thế 220KV của thị xã Ninh Hòa, số hộ được sử dụng lưới điện quốc gia cho sinh hoạt và sản xuất đạt tỷ lệ 100%.

Hệ thống cơ sở hạ tầng, mạng lưới thông tin – viễn thông được phủ sóng khắp trong xã. Đến năm 2010, tổng số máy điện thoại đạt hơn 70% số hộ.

4. Đời sống văn hóa – xã hội và tín ngưỡng, tâm linh

Trong quá trình khẩn hoang, lập làng, người dân Ninh Phước đã xây dựng hệ thống các đình, miếu để thờ tự thần linh, cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, quốc thái dân an; cũng như tưởng nhớ tổ tiên, anh linh các bậc tiền nhân khai hoang, mở cõi. Trong kháng chiến, các ngôi đình bị địch phá hủy nhiều lần, chỉ còn lại phần móng. Sau ngày đất nước thống nhất, các cơ sở thờ tự này mới được xây mới khang trang. Các ngôi đình thờ Thành hoàng Bổn cảnh, các bậc Tiền hiền và Hậu hiền là những người có công khai hoang, lập làng. Kiến trúc đình khá tiêu biểu cho tín ngưỡng vùng biển. Hằng năm, đình tổ chức cúng 2 lần vào tháng 3 âm lịch và tháng 10 âm lịch. Đây là những lễ hội chủ yếu của người dân Ninh Phước.

Đình Ninh Tịnh được xây dựng lại từ năm 1992, trùng tu năm 2000. Hàng năm, đình tổ chức cúng 2 lần vào 20/2 âm lịch (cúng Kỳ yên) và 21/7 âm lịch (cúng Tiền hiền). Ngoài ra, 3 năm/lần, nhân dân Ninh Tịnh còn mời đoàn hát bội đến biểu diễn trong dịp cúng Tiền hiền.

Lăng ông Nam Hải tại Ninh Tịnh được xây dựng 20/7 âm lịch năm 1990. Lăng thờ ông Nam Hải và tổ chức cúng hàng năm vào dịp 19/6 âm lịch.

Đình Mỹ Giang đặt trên đảo Mỹ Giang, được xây dựng đầu thế kỷ XX, do chiến tranh nên sụp đổ. Đến năm 1956 được dựng lại, sau khi người dân trong thôn bị địch xúc đi, đình hoang phế, sau giải phóng đình được cải tạo lại.

Sau năm 1975, sau khi nhân dân đảo Mỹ Giang dời lên đất liền, năm 1990, Đình Mỹ Giang (mới) được xây dựng bên cạnh Miếu Ninh Yển. Hằng năm đình tổ chức cúng đình 2 lần vào 25/3 âm lịch cúng ông Nam Hải và 20/2 âm lịch cúng Kỳ yên. Đặc biệt, đình có đội chèo hò báo trạo có từ xưa với khoảng 20 người.

Cạnh Đình Mỹ Giang là Miếu Bà hậu thổ. Miếu được xây dựng mới năm 1993. Miếu thờ bà Thiên Y A Na. Hằng năm Miếu tổ chức cúng vào dịp 20/2 âm lịch.

Miếu Ninh Yển được xây dựng vào năm 1993, Miếu thờ bà Thiên Y A Na. Hằng năm Miếu tổ chức cúng vào dịp 25/2 âm lịch.

Chùa Long Giang được xây dựng năm 1956 trên đảo Mỹ Giang. Năm 1962, sau khi bị xúc dân, chùa trở nên hoang phế. Năm 1991, chùa được xây dựng mới trên đất liền tại vị trí như ngày nay.

Đài Liệt sĩ được xây dựng tại thôn Ninh Tịnh, ghi danh những liệt sĩ quê hương Ninh Phước đã ngã xuống cho hòa bình, độc lập và thống nhất của Tổ quốc, cho sự bình yên của quê hương.

Nhân dân Ninh Phước có đời sống văn hóa tinh thần, những phong tục tập quán về ma chay, cưới hỏi, cúng tế có những nét giống với nhiều địa phương khác. Trong đó phong tục thờ cúng tổ tiên được truyền giữ và coi trọng. Gia đình nào cũng lập bàn thờ gia tiên, đặt ở nơi trang trọng nhất. Trên bàn thờ gia tiên thường có ảnh Bác Hồ. Ngày giỗ, tết, hội làng là nơi tụ họp của con cháu để hướng về cội nguồn, gia tộc, tổ tiên; thành kính đối với anh linh các bậc khai hoang, lập làng; những anh hùng, liệt sĩ đã ngã xuống trên quê hương Ninh Phước.

Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, Ninh Phước không có trường học, ai muốn học phải lên Hòn Khói. Tuy nhiên, số lượng người học phổ thông rất hạn chế, chỉ có một vài người biết chữ. Lúc này nền giáo dục không đủ điều kiện nâng cao dân trí, bởi thực dân Pháp thực hiện chính sách ngu dân.

Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, nhân dân có điều kiện được xóa mù chữ nhờ tham gia “bình dân học vụ”. Tuy nhiên, do điều kiện lúc bấy giờ nên trình độ học vấn của đa số nhân dân chỉ dừng lại ở bậc sơ học (tiểu học).

Sau giải phóng năm 1975, công tác giáo dục được Đảng, Nhà nước và chính quyền cơ sở quan tâm đầu tư ngày càng phát triển mạnh thì việc học tập của nhân dân được thuận lợi hơn, nhiều con em được đi học. Trên địa bàn xã có đầy đủ 3 cấp học: Mầm non, tiểu học và trung học cơ sở. Đội ngũ giáo viên đều đạt chuẩn. Trình độ văn hóa của nhân nhân ngày càng được nâng cao, số lượng con em Ninh Phước tốt nghiệp cao đẳng, đại học ngày càng nhiều.

Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế Là Động Lực Phát Triển Xã Hội

Ngày 5-11-2023, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TW về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị – xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.

I – TÌNH HÌNH 1. Từ khi nước ta chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (năm 2007) đến nay, tiến trình chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta ngày càng sâu rộng hơn, đạt được nhiều kết quả tích cực, khá toàn diện trên các lĩnh vực, nổi bật là:

– Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một trong những động lực quan trọng để phát triển kinh tế – xã hội , làm tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia; thúc đẩy hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ được khối lượng lớn vốn đầu tư, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý và các nguồn lực quan trọng khác; tạo thêm nhiều việc làm; nâng cao dân trí và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế từ Trung ương đến địa phương được nâng lên một bước; tổ chức, bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước được củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động. Đội ngũ doanh nhân Việt Nam có bước trưởng thành đáng kể.

– Hội nhập kinh tế quốc tế đã đóng góp quan trọng vào việc mở rộng và đưa quan hệ của nước ta với các đối tác đi vào chiều sâu, tạo thế đan xen lợi ích, góp phần gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam, nâng cao uy tín và vị thế của nước ta trên trường quốc tế.

2. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, hội nhập kinh tế quốc tế vẫn còn một số hạn chế, yếu kém:

– Chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về hội nhập kinh tế quốc tế có nơi, có lúc chưa được quán triệt kịp thời, đầy đủ và thực hiện nghiêm túc. Hội nhập kinh tế quốc tế còn bị tác động bởi cách tiếp cận phiến diện, ngắn hạn và cục bộ ; do đó, chưa tận dụng được hết các cơ hội và ứng phó hữu hiệu với các thách thức.

– Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và quá trình đổi mới ở trong nước, nhất là đổi mới, hoàn thiện thể chế, trước hết là hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa được thực hiện một cách đồng bộ, chưa gắn kết chặt chẽ với quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu bảo đảm quốc phòng – an ninh, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, môi trường sinh thái, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

– Hội nhập kinh tế quốc tế chưa được phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với hội nhập trong các lĩnh vực khác. Chưa tạo được sự đan xen chặt chẽ lợi ích chiến lược, lâu dài với các đối tác, nhất là các đối tác quan trọng. Việc ứng phó với những biến động và xử lý những tác động từ môi trường khu vực và quốc tế còn bị động, lúng túng và chưa đồng bộ.

3. Hiện nay, tình hình trong nước, khu vực và thế giới đã có nhiều thay đổi, đang diễn biến phức tạp, khó lường. Bên cạnh thời cơ, thuận lợi, đất nước ta tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong phát triển kinh tế – x ã hội, khả năng bảo đảm quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị – xã hội, giữ vững môi trường hòa bình, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững.

Việc thực hiện có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới sẽ tạo ra cơ hội mở rộng, đa dạng hóa thị trường với mức ưu đãi cao, tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng, mạng lưới sản xuất toàn cầu; góp phần tích cực vào quá trình đổi mới đồng bộ và toàn diện, khơi dậy tiềm năng của đất nước và sức sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao trình độ phát triển, giảm dần tỉ trọng gia công lắp ráp của nền kinh tế. Nước ta cũng có cơ hội tham gia chủ động và sâu hơn vào quá trình định hình và cải cách các định chế, cơ chế, cấu trúc khu vực và quốc tế có lợi cho ta và có điều kiện thuận lợi để đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc, lợi ích của các tổ chức, cá nhân; bảo đảm độc lập, tự chủ, củng cố và duy trì môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung có cơ hội để phát triển mạnh hơn, sáng tạo hơn và có sức cạnh tranh hơn. Người tiêu dùng có thêm cơ hội lựa chọn hàng hóa, dịch vụ chất lượng cao, giá cả cạnh tranh; bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh, môi trường.

Tuy nhiên, việc khắc phục những hạn chế, yếu kém, tồn tại và triển khai thực hiện các cam kết quốc tế mới cũng sẽ đặt ra nhiều khó khăn, thách thức không chỉ về kinh tế mà còn cả về chính trị, xã hội. Sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhiều ngành, doanh nghiệp và sản phẩm của nước ta sẽ gặp khó khăn hơn. Việc thực hiện các cam kết sâu rộng và cao hơn, nhất là vấn đề lao động, việc làm, bảo vệ môi trường… đáp ứng yêu cầu nội luật hóa các cam kết nếu không được nghiên cứu, chuẩn bị kỹ, có lộ trình, bước đi phù hợp, sẽ tác động tiêu cực đến quá trình đổi mới, hoàn thiện thể chế, giải quyết những vấn đề phức tạp, nhạy cảm. Việc thực hiện các tiêu chuẩn của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) cũng đặt ra những thách thức mới không chỉ đối với quản lý của Nhà nước mà còn có thể ảnh hưởng đến ổn định chính trị – xã hội, vai trò và hoạt động của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

Những cơ hội và thách thức nêu trên có mối quan hệ qua lại và có thể chuyển hóa lẫn nhau. Cơ hội có thể trở thành thách thức nếu không được tận dụng kịp thời. Thách thức có thể biến thành cơ hội nếu chúng ta chủ động ứng phó thành công.

II – MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO

1- Mục tiêu: Thực hiện tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị – xã hội, nhằm tăng cường khả năng tự chủ của nền kinh tế, mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý, bảo đả m phát triển nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

2. Quan điểm chỉ đạo

– Kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế vì lợi ích quốc gia – dân tộc là định hướng chiến lược lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vận dụng sáng tạo các bài học kinh nghiệm và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, nhất là mối quan hệ giữa tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.

– Hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm của hội nhập quốc tế; hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; doanh nhân, doanh nghiệp, đội ngũ trí thức là lực lượng đi đầu. Nhà nước cần tập trung khuyến khích, tạo điều kiện cho sự phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm Việt Nam, nâng cao trình độ phát triển của nền kinh tế.

– Bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị – xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội; tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tiến trình hội nhập quốc tế. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị – xã hội, đặc biệt là công đoàn, phù hợp với yêu cầu của tình hình mới.

III – MỘT SỐ CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH LỚN 1. Chủ trương, chính sách chung

– Xử lý thỏa đáng mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng nền kinh tế có khả năng tự chủ cao, ứng phó được với những biến động kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, an ninh kinh tế.

– Thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, coi đây vừa là tiền đề, vừa là hệ quả của hội nhập kinh tế quốc tế, là giải pháp có tính quyết định để nâng cao nội lực nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức của giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế mới , bảo đảm nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Xác định gia tăng xuất khẩu, số lượng và chất lượng thu hút đầu tư nước ngoài, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế là các tiêu chí kinh tế trực tiếp để đánh giá kết quả hội nhập quốc tế về kinh tế.

– Tiếp tục thực hiện ba đột phá chiến lược, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển nhanh và bền vững; thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị trong tình hình mới và thực thi các cam kết quốc tế. Tập trung nghiên cứu, triển khai thực hiện các giải pháp mới có hiệu quả để phát huy sức mạnh tổng hợp và sự sáng tạo của cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân; huy động mạnh mẽ mọi nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển.

– Trong 5 – 10 năm tới, tập trung khai thác hiệu quả các cam kết quốc tế, xây dựng các cơ chế, chính sách phòng vệ thương mại, phòng ngừa và giải quyết tranh chấp quốc tế; có chính sách phù hợp hỗ trợ các lĩnh vực có năng lực cạnh tranh thấp vươn lên; tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ, trình độ pháp luật quốc tế, xây dựng hàng rào kỹ thuật, biện pháp phòng vệ chủ động phù hợp.

2. Các chủ trương, chính sách cụ thể 2.1. Tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức

– Tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân về hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng và hội nhập quốc tế nói chung. Nâng cao hiểu biết và sự đồng thuận của cả xã hội, đặc biệt là của doanh nghiệp, doanh nhân đối với các thỏa thuận quốc tế, đặc biệt là cơ hội, thách thức và những yêu cầu phải đáp ứng khi tham gia và thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới bằng các hình thức, nội dung tuyên truyền phù hợp và hiệu quả cho từng ngành hàng, hiệp hội, doanh nghiệp và cộng đồng.

– Chú trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Chủ động, kịp thời phát hiện, đấu tranh với các luận điệu, quan điểm sai trái, thù địch; bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

– Nâng cao nhận thức và năng lực pháp lý, đặc biệt là luật pháp quốc tế, thương mại quốc tế, trước hết là của cán bộ chủ chốt các ngành và chính quyền các cấp, doanh nghiệp, cán bộ làm công tác tố tụng, đội ngũ luật sư và những người trực tiếp làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế.

– Hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển doanh nghiệp; đặc biệt là hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ cùng với khuyến khích khởi nghiệp, sáng tạo. Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động mua bán – sáp nhập doanh nghiệp Việt Nam, trên cơ sở phát huy nội lực, bảo đảm tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế, phù hợp với các cam kết quốc tế.

– Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế và các ban chỉ đạo liên ngành về hội nhập kinh tế quốc tế, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực chính trị – quốc phòng – an ninh, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hóa – xã hội, giáo dục, khoa học – công nghệ và các lĩnh vực khác nhằm tạo sức mạnh tổng hợp của quốc gia trong hội nhập kinh tế quốc tế.

2.3. Nâng cao năng lực cạnh tranh

– Nghiêm túc quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tập trung ưu tiên đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Tiếp tục ổn định và củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc; kiểm soát tốt lạm phát; bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; giữ vững an ninh kinh tế.

– Tiếp tục thực hiện ba đột phá chiến lược; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội đồng bộ, hiện đại; chú trọng phát triển nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập của đất nước. Ưu tiên phát triển và chuyển giao khoa học – công nghệ, nhất là khoa học – công nghệ hiện đại, coi đây là yếu tố trọng yếu nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

– Đẩy mạnh cơ cấu lại tổng thể các ngành, lĩnh vực kinh tế trên phạm vi cả nước và từng vùng, địa phương, doanh nghiệp với tầm nhìn dài hạn, có lộ trình cụ thể; gắn kết chặt chẽ giữa cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế với cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực trọng tâm trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Tập trung ưu tiên cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước; cơ cấu lại thị trường tài chính, trọng tâm là các tổ chức tín dụng; đổi mới, cơ cấu lại khu vực sự nghiệp công lập; cơ cấu lại nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ… Đồng thời, đổi mới phương thức thực hiện liên kết, phối hợp trong phát triển kinh tế vùng; thực hiện có hiệu quả quá trình đô thị hóa.

– Xây dựng và triển khai các chính sách hỗ trợ và tạo mọi điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân cả về số lượng, chất lượng ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế để khu vực kinh tế này thực sự trở thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế, một lực lượng nòng cốt trong hội nhập kinh tế quốc tế.

– Thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển nguồn nhân lực. Tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo; đẩy nhanh phổ cập ngoại ngữ, trọng tâm là tiếng Anh trong giáo dục các cấp. Đẩy mạnh dạy nghề và gắn kết đào tạo với doanh nghiệp; tăng cường ứng dụng khoa học – công nghệ trong sản xuất kinh doanh.

– Giám sát thường xuyên, tăng cường công tác dự báo về tăng trưởng xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, năng suất lao động, xuất khẩu lao động, xác định cơ cấu trong mỗi ngành kinh tế và toàn bộ nền kinh tế để có cơ sở đánh giá hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế và kịp thời điều chỉnh chính sách, biện pháp.

2.4. Tập trung ưu tiên phát triển nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới

– Đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân ở nông thôn. Chủ động ban hành và triển khai thực hiện chính sách đối với nông nghiệp và nông thôn, nhất là chính sách tích tụ, tập trung ruộng đất gắn với cơ cấu lại lao động ở nông thôn nhằm khắc phục những điểm yếu của sản xuất nhỏ, manh mún, kết nối kém; khoa học – công nghệ trình độ thấp; kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn lạc hậu.

– Tập trung phát triển ngành nông nghiệp với các sản phẩm sạch, thân thiện với môi trường, nông nghiệp hữu cơ, có năng suất cao, có giá trị lớn và có khả năng xuất khẩu phù hợp với biến đổi khí hậu và môi trường sinh thái. Triển khai hiệu quả các nội dung “tam nông”, mô hình “liên kết bốn nhà”. Khuyến khích phát triển bền vững kinh tế tập thể, nòng cốt là hợp tác xã kiểu mới với nhiều hình thức liên kết, hợp tác đa dạng; tạo điều kiện cho kinh tế hộ gia đình phát triển góp phần hình thành chuỗi giá trị từ sản xuất đến chế biến, tiêu dùng và xuất khẩu.

– Hiện đại hóa, thương mại hóa nông nghiệp, chuyển mạnh sang phát triển nông nghiệp theo chiều sâu, sản xuất lớn, dựa vào khoa học – công nghệ, có năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh và giá trị gia tăng cao. Chuyển nền nông nghiệp từ sản xuất lương thực là chủ yếu sang phát triển nền nông nghiệp đa dạng phù hợp với lợi thế của từng vùng.

– Khẩn trương hình thành quy hoạch tổng thể phát triển những mặt hàng, sản phẩm Việt Nam có thế mạnh. Đồng thời, chuẩn bị những giải pháp ứng phó, hỗ trợ đối với những ngành hàng, mặt hàng chịu tác động lớn, trực tiếp từ các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới phù hợp với điều kiện biến đổi khí hậu phức tạp hiện nay.

– Tranh thủ lộ trình chuyển đổi quy định trong các cam kết quốc tế để tập trung thực hiện các cơ chế, chính sách phù hợp nhằm tạo động lực mới cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là các chính sách để tích tụ, tập tru ng ruộng đất, thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; tổ chức nông dân sản xuất nông sản hàng hóa quy mô lớn, chất lượng bảo đảm g ắn với chế biến, tiêu thụ và xuất khẩu. Xây dựng nông nghiệp phát triển bền vững, hiệu quả trong hội nhập kinh tế quốc tế và ứng phó với biến đổi khí hậu.

2.5. Tăng cường quốc phòng, an ninh

– Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, đặc biệt là xây dựng thế trận lòng dân vững chắc . Kết hợp tốt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.

– Kết hợp tuyên truyền, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng và tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế với tăng cường công tác giáo dục, nâng cao cảnh giác cách mạng cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, nhận thức rõ âm mưu và hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng hội nhập quốc tế để tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá đất nước ta.

– Chủ động, tỉnh táo, đấu tranh kịp thời với những âm mưu, ý đồ thông qua hội nhập kinh tế quốc tế để xâm phạm chủ quyền, an ninh quốc gia, áp đặt về chính trị đối với nước ta.

– Đẩy mạnh việc phòng, chống tội phạm, kiên quyết triệt phá những băng nhóm tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm công nghệ cao, tội phạm kinh tế, khủng bố,… Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Xây dựng xã hội kỷ cương, an toàn. Tăng cường hiệu quả hoạt động của các lực lượng thực thi pháp luật, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

– Kết hợp tốt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế – xã hội; các dự án, công trình kinh tế trong các khu vực phòng thủ phải bảo đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh, có tính lưỡng dụng, nhất là ở những vị trí trọng yếu, chiến lược. Theo sát, nắm chắc tình hình, làm thất bại mọi âm mưu lợi dụng hội nhập, gắn kết kinh tế để chống phá , gây mất ổn định chính trị – xã hội.

– Xây dựng kế hoạch, lộ trình và triển khai cơ cấu, sắp xếp, tổ chức lại doanh nghiệp trong lực lượng vũ trang. Tạo điều kiện để các doanh nghiệp trong lực lượng vũ trang chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh kết hợp với bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh.

2.6. Nâng cao và phát huy hiệu quả uy tín và vị thế quốc tế

– Đẩy mạnh và chủ động làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác có tầm quan trọng chiến lược đối với sự phát triển và an ninh của đất nước; chủ động, tích cực tham gia xây dựng Cộng đồng ASEAN, đưa các khuôn khổ quan hệ đã xác lập đi vào thực chất, tạo sự đan xen gắn kết lợi ích lâu bền giữa nước ta với các đối tác, nhất là các đối tác lớn, quan trọng.

– Tạo dựng và nâng cao mức độ tin cậy, nâng cao hiệu quả các cơ chế hợp tác giữa ta và các đối tác, trước hết là các nước láng giềng, các nước lớn. Thúc đẩy các biện pháp xây dựng lòng tin, minh bạch hóa chính sách và thực hiện nghiêm túc, nhất quán các cam kết quốc tế. Gia tăng số lượng và mức độ hiệu quả của các cơ chế hợp tác giữa ta và các nước đối tác.

– Đẩy mạnh, nâng tầm công tác đối ngoại đa phương; chủ động, tích cực tham gia các định chế đa phương, góp phần vào quá trình định hình các cấu trúc khu vực và toàn cầu; tích cực tham gia vào những vấn đề quan trọng đối với an ninh và phát triển của đất nước.

– Phát huy vị thế quốc tế để hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc khi triển khai các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Phát huy uy tín và vị thế quốc tế để tạo môi trường thuận lợi cho phát triển, đồng thời giữ vững độc lập, chủ quyền trong quá trình hội nhập; giữ vững thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, ổn định chính trị, kiên quyết, kiên trì đấu tranh với các âm mưu và ý đồ phá hoại của các thế lực thù địch.

– Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa ngoại giao nhà nước, đối ngoại Đảng và đối ngoại nhân dân trong quá trình hội nhập để phát huy tốt vai trò và thế mạnh đặc thù của mỗi kênh đối ngoại.

2.7. Bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc

– Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về văn hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nhất là trong bối cảnh có sự phát triển đột phá của công nghệ thông tin và truyền thông.

– Giữ vững và không ngừng phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa, phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường các sản phẩm văn hóa. Xây dựng văn hóa trong kinh tế; khai thác hiệu quả khía cạnh kinh tế của văn hóa, nâng cao giá trị văn hóa trong các sản phẩm mang đặc trưng, đặc sắc của mỗi địa phương.

– Đẩy mạnh hợp tác song phương và đa phương về văn hóa. Lồng ghép các hoạt động hội nhập quốc tế trong quá trình xây dựng và triển khai chiến lược bảo tồn, phát huy và quảng bá văn hóa. Chủ động nâng cao hiệu quả quản lý nội dung sản phẩm văn hóa, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn sự xâm nhập của những sản phẩm văn hóa không lành mạnh từ bên ngoài (đặc biệt là trên mạng Internet).

2.8. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội

– Sửa đổi, bổ sung, kiện toàn hệ thống pháp luật về an sinh xã hội, tạo khuôn khổ pháp lý đầy đủ, phù hợp, các chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm an toàn vệ sinh lao động, trợ cấp xã hội…; xây dựng và triển khai chương trình hợp tác về tương hỗ bảo hiểm xã hội với các nước. Hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh các quan hệ xã hội, đặc biệt về quan hệ lao động và những vấn đề mới phát sinh từ quá trình thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.

– Thực hiện có hiệu quả mục tiêu giảm nghèo bền vững theo phương pháp tiếp cận đa chiều; thu hẹp khoảng cách phát triển và khoảng cách giàu – nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, các dân tộc, bảo đảm công bằng xã hội. Chủ động xây dựng và thực hiện chính sách bảo đảm trợ giúp xã hội cho các nhóm đối tượng yếu thế hoặc dễ bị tổn thương của quá trình triển khai các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.

– Bảo đảm mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ, các dịch vụ xã hội cơ bản cho nhân dân như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin, đặc biệt là ở các khu vực nông thôn, miền núi, biên giới và hải đảo.

2.9. Giải quyết tốt các vấn đề môi trường

– Tăng cường quản lý nhà nước, hoàn thiện cơ chế, chính sách và thực hiện đồng bộ các giải pháp tăng cường quản lý và sử dụng có hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Kiên quyết bảo đảm các yêu cầu về bảo vệ môi trường trong các dự án đầu tư. Chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm những hành vi vi phạm về bảo vệ môi trường. Thực hiện quy chuẩn, tiêu chuẩn phát thải theo lộ trình phù hợp với các cam kết quốc tế.

– Triển khai mạnh mẽ các biện pháp cải thiện chất lượng môi trường và điều kiện sống của người dân. Kiểm soát chặt chẽ nguồn gây ô nhiễm. Hạn chế, tiến tới ngăn chặn hoàn toàn tình trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề, lưu vực sông, khu công nghiệp, khu đô thị và bờ biển. Tập trung xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng, nhất là các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) quy mô lớn. Triển khai nhanh lộ trình kiểm soát khí thải đối với xe cơ giới, nhất là ở các đô thị lớn.

– Khẩn trương xây dựng, hoàn thiện và thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng và đối với môi trường. Thúc đẩy xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường và bảo vệ môi trường. Mỗi người dân là một người thực hiện và giám sát thực tế bảo vệ môi trường để kịp thời ngăn chặn, thông báo, tố cáo những hành vi vi phạm, hủy hoại môi trường.

Khai thác, sử dụng khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh điều tra, đánh giá tiềm năng, trữ lượng, hoàn thiện quy hoạch và tăng cường quản lý, giám sát, sử dụng hợp lý, hiệu quả, tiết kiệm các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Khai thác và sử dụng bền vững nguồn nước; chủ động hợp tác quốc tế trong việc bảo vệ, quản lý và sử dụng bền vững nguồn nước xuyên quốc gia, nhất là nguồn nước sông Mê Công. Tăng cường bảo vệ và phát triển rừng, nhất là rừng phòng hộ ven biển, rừng đầu nguồn, rừng đặc dụng, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học.

2.10. Đổi mới tổ chức, hoạt động của tổ chức công đoàn và quản lý tốt sự ra đời, hoạt động của các tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp

– Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị – xã hội, nhất là tổ chức công đoàn trong tiến trình hội nhập quốc tế. Đổi mới tổ chức, hoạt động của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới; tạo điều kiện về nguồn lực đủ mạnh để bảo đảm hiệu quả các hoạt động đại diện, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, thu hút người lao động và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp tham gia Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội; vai trò của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và các tổ chức đại diện cộng đồng doanh nghiệp. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức của người lao động nằm ngoài hệ thống của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam trên cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở.

– Ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật về phân công trách nhiệm quản lý nhà nước để đổi mới, tăng cường quản lý có hiệu quả sự ra đời và hoạt động của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, tạo điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh ổn định, thành công.

– Bảo đảm sự ra đời, hoạt động của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp phù hợp với quá trình hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, kiện toàn các công cụ, biện pháp quản lý nhằm tạo điều kiện để tổ chức này hoạt động thuận lợi, lành mạnh theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam, phù hợp với các nguyên tắc của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), đồng thời giữ vững ổn định chính trị – xã hội.

Tổ Chức Xã Hội Là Gì? Đặc Điểm, Phân Loại Các Loại Tổ Chức Xã Hội

Tổ chức xã hội là gì? Khái niệm, đặc điểm, phân loại các loại tổ chức xã hội. Có 5 loại tổ chức xã hội ở Việt Nam là tổ chức trính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, các tổ chức tự quản và tổ chức khác.

Trong xã hội hiện nay chúng ta thường thấy có khá nhiều loại hình tổ chức xã hội, gần gũi nhất đối với hoạt động đời sống tại gia đình mỗi cá nhân đó là mô hình tổ dân phố tự quản hay thôn xóm hay Hội liên hiệp phụ nữ, hội cựu chiến binh …. hoặc chế độ mà chúng ta đang được lãnh đạo đó là dưới chế độ quản lý của Đảng cộng sản.

Vậy thì những loại hình tổ chức xã hội này được hình thành, hoạt động có chịu sự quản lý, hay xuất phát từ đâu mà lập nên, các tổ chức này hoạt động dựa trên nguyên tắc nào?

Tổ chức xã hội đứng gia nhân danh cho tổ chức của mình trong việc tham gia thực hiện đối với những hoạt động như quản lý nhà nước. Trường hợp pháp luật có quy định thì tổ chức xã hội sẽ nhân danh Nhà nước trong việc hoạt động của tổ chức.

Các thành viên tham gia trong tổ chức xã hội hoạt động hoàn toàn dựa trên tinh thần tự nguyện và hoạt động dựa trên một mục đích chung hay đơn giản ở đây là họ thành lập dựa trên nguyên tắc cùng giai cấp, cùng công việc nghề nghiệp của mình.

Tổ chức xã hội đề ra các nguyên tắc hoạt động của tổ chức đó và điều lệ của tổ chức do chính các thành viên của tổ chức đó lập nên. Các nguyên tắc, điều lệ này được lập ra phải đảm bảo đúng theo quy định của pháp luật.

Không như các loại tổ chức khác thường thấy, điểm khác biệt cơ bản của tổ chức xã hội đó là việc hoạt động của tổ chức không vì mục đích lợi nhuận mà mục đích của tổ chức này là để bảo vệ các quyền cũng như những lợi ích của các thành viên trong tổ chức.

– Tổ chức chính trị:

Thành viên tham gia trong tổ chức chính trị này là những người đại diện của cả một giai cấp hoặc là một lực lượng xã hội nên những thành viên trong tổ chức này là những người mà do được giai cấp hay lực lượng xã hội đó bầu lên.

Tổ chức chính trị được công khai và thừa nhận chỉ khi quyền lực nhà nước đặt ra ở đây là thuộc về một lực lượng nhất định.

Đối với tổ chức chính trị này thì nhiệm vụ đặt ra chủ yếu đó là việc giành chính quyền và giữ chính quyền.

Ở nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì xác định rõ một điều rằng chỉ có duy nhất một tổ chức chính trị cầm quyền đó là Đảng cộng sản Việt Nam.

– Tổ chức chính trị xã hội:

Đây là một loại tổ chức chặt chẽ và được phân chia thành nhiều lớp để hoạt động hiệu quả.

Tổ chức chính trị xã hội góp phần trong việc bảo vệ, xây dựng cũng như đối với sự phát triển của đất nước.

Tổ chức hoạt động dựa trên nguyên tắc chính đó là nguyên tắc tập trung dân chủ, với hệ thống trải dài từ trung ương đến địa phương. Hoạt động theo điều lệ được lập tại hội nghị đại biểu các thành viên hoặc hội nghị toàn thể thông qua.

Các loại tổ chức chính trị xã hội hiện nay gồm có Công đoàn, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Hội cứu chiến binh Việt Nam và Hội nông dân Việt Nam

– Tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp:

Loại hình tổ chức này được thành lập dựa trên ý kiến, sáng kiến cũng như nhu cầu của cơ quan Nhà nước.

Đứng ra trợ giúp, hỗ trợ nhà nước trong việc giải quyết một số vướng mắc, vấn đề xã hội cụ thể.

Được thành lập dựa trên những quy định của Nhà nước và chịu sự quản lý của cơ quan Nhà nước.

– Tổ chức tự quản:

Đây cũng là một loại hình tổ chức hình thành dựa trên sáng kiến, quan điểm của Nhà nước. Cộng đồng dân cư trên một địa bàn cụ thể sẽ bầu ra tổ chức tự quản dưới những cái tên cụ thể như tổ dân phố, thôn hay tổ hòa giải cơ sở … nhằm quản lý những công việc cụ thể mang tính cộng đồng hoặc được Nhà nước ủy quyền để thực hiện nhiệm vụ.

Được thành lập dựa trên những quy định của Nhà nước và chịu sự quản lý của cơ quan Nhà nước.

Thực hiện nhiệm vụ tự quản trên phạm vi nhất định cụ thể các công việc tại địa phương mà không chịu sự quản lý trực tiếp của Nhà nước.

– Nhóm tổ chức khác:

– Các tổ chức có tư cách pháp nhân gồm có tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp và tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp.

– Tổ chức chính trị có tư cách pháp nhân tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của tổ chức mình.

– Được thành lập theo sự cấp phép, cho phép của cơ quan Nhà nước trong việc thành lập và hoạt động, Nhà nước công nhận đối với điều lệ công ty, hội viên là các cá nhân tự nguyện trong việc đóng góp tài sản hoặc những khoản hội phí của cá nhân đó trong việc hình thành khối tài sản chung đối với việc duy trì, hoạt động của hội trong việc tham gia các quan hệ dân sự với tư cách là pháp nhân.

– Điểm đáng lưu ý đó là không phải tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp nào cũng có tư cách pháp nhân mà chỉ những tổ chức có đầy đủ các điều kiện theo quy định của Bộ luật dân sự 2023 và chịu sự chi phối, điều chỉnh theo Bộ luật dân sự 2023.

TƯ VẤN MỘT TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ:

Xin chào anh/ chị! Cho em hỏi đơn vị tổ chức chính trị: Đảng CSVN Tổ chức chính trị xã hội: Mặt trận tổ quốc; Công đoàn; Đoàn Thanh niên, Hội LH Phụ nữ; Hội Nông dân Tổ chức Xã hội – Nghề nghiệp: Đoàn Luật sư; Trọng tài kinh tế Vậy Tổ chức xã hội và tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp gồm những đơn vị nào? Phần kể tên trên em có sót không ạ? Mong được hồi âm sớm.

Tổ chức xã hội là một bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các tổ chức xã hội đã góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Là một hình thức tổ chức nhân dân tham gia quản lý nhà nước, các tổ chức xã hội được hiểu là hình thức tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức ở Việt Nam có chung mục đích tập hợp, hoạt động theo pháp luật và điều lệ, không vì lợi nhuận nhằm đáp ứng những lợi ích chính đáng của các thành viên và tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

Các tổ chức xã hội có những đặc điểm chung nhất định, phân biệt với các cơ quan nhà nước và các tổ chức kinh tế. Các đặc điểm đó bao gồm:

– Các tổ chức xã hội nhân danh chính tổ chức mình để tham gia các hoạt động quản lý nhà nước, chỉ trong trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định tổ chức xã hội mới hoạt động nhân danh nhà nước.

– Các tổ chức xã hội hoạt động tự quản theo quy định của pháp luật và theo điều lệ do các thành viên trong tổ chức xây dựng.

– Các tổ chức xã hội hoạt động không nhằm mục đích lợi nhuận mà nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên.

Thứ nhất, có 5 loại tổ chức xã hội ở Việt Nam là tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, các tổ chức tự quản và tổ chức khác.

– Là tổ chức mà thành viên cùng hoạt động với nhau vì một khuynh hướng chính trị nhất định.

– Chỉ được công khai thừa nhận nếu quyền lực nhà nước thuộc về một lực lượng nhất định.

– Thanh viên của tổ chức này là đại diện của một giai cấp hay một lực lượng xã hội nên phải bầu cử mới được gia nhập

– Nhiệm vụ chủ yếu là giành và giữ chính quyền

– Nước Việt Nam có một tổ chức chính trị duy nhất là Đảng Cộng Sản Việt Nam.

– Tổ chức mang màu sắc chính trị với vai trò là đại diện của các tầng lớp trong xã hội đối với hoạt động của nhà nước cũng như đóng một vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị, cơ sở của chính quyền nhân dân.

– Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ và chia thành nhiều lớp hoạt động.

– Ở Việt Nam hiện có 6 tổ chức chính trị xã hội là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam và Hội cựu chiến binh Việt Nam.

– Thành lập theo sang kiến của nhà nước

– Hình thành theo các quy định của nhà nước và được quản lý chặt chẽ bởi cơ quan nhà nước.

– Hỗ trợ nhà nước giải quyết một số vấn đề xã hội

– Hoạt động tự quản, cơ cấu do nội bộ tổ chức quyết định, hoạt động không mang tính quyền lực chính trị và hoàn toàn tự nguyện.

– Thành lập theo sang kiến của nhà nước

– Hình thành theo quy định nhà nước và được quản lý bởi cơ quan nhà nước

– Thực hiện nhiệm vụ tự quản ở phạm vi nhất định các công việc mà nhà nước không trực tiếp quản lý.

ví dụ như tổ dân phố..

Các hội được thành lập theo dấu hiệu nghề nghiệp, sở thích hoặc các dấu hiệu khác, được thành lập trên cơ sở quyền tự do lập hội của công dân ví dụ như hội người mù, các câu lạc bộ…

Thứ hai, Điều 104 “Bộ luật dân sự năm 2023” quy định pháp nhân là tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp:

“1. Tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập, công nhận điều lệ và có hội viên là cá nhân, tổ chức tự nguyện đóng góp tài sản hoặc hội phí nhằm phục vụ mục đích của hội và nhu cầu chung của hội viên là pháp nhân khi tham gia quan hệ dân sự.

2. Tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình.

3. Trong trường hợp tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp chấm dứt hoạt động thì tài sản của tổ chức đó không được phân chia cho các hội viên mà phải được giải quyết theo quy định của pháp luật.”

Theo đó, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp có đặc điểm: được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập, công nhận điều lệ. Hội viên có thể bao gồm cả cá nhân và tổ chức, tài sản của loại tổ chức này được hình thành chủ yếu từ sự đóng góp tự nguyện của các hội viên hoặc hội phí, nhằm phục vụ cho nhu cầu chung của hội viên và mục đích của tổ chức.

Chỉ các tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp thỏa mãn đầy đủ các điều kiện quy định tại Điều 84 “Bộ luật dân sự năm 2023″mới trở thành tổ chức có tư cách pháp nhân và chịu sự điều chỉnh của các Khoản 2,3 của điều luật này. Pháp nhân là tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp phải chịu trách nhiệm độc lập bằng tài sản của mình như các pháp nhân nói chung.

Khoản 3 Điều 104 “Bộ luật dân sự năm 2023″chỉ nhằm xác định rõ tính chất độc lập trong việc gánh vác trách nhiệm dân sự của tổ chức này: có sự tách biệt rõ ràng giữa tài sản riêng của hội viên và tài sản của tổ chức; hội viên không có nghĩa vụ phải đem tài sản của mình để thực hiện nghĩa vụ dân sự của tổ chức. Như vậy, không có quy định đơn vị cụ thể nào được coi là tổ chức tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp.

Trình Bày Đặc Điểm Phát Triển Kinh Tế Xã Hội Của Các Nước Và Lãnh Thổ

Lời giải của Tự Học 365

Giải chi tiết: * Đặc điểm phát triển kinh tế xã hội của các nước và lãnh thổ châu Á hiện nay:

– Trình độ phát triển giữa các nước và vùng lãnh thổ rất khác nhau. Có thể phân biệt :

+ Nhật Bản là nước có trình độ phát triển cao nhất châu Á, đứng thứ hai thế giới (sau Hoa Kì) và là nước có nền kinh tế – xã hội phát triển toàn diện.

+ Một số nước và vùng lãnh thổ có mức độ công nghiệp hóa khá cao và nhanh như Xin-ga-po, Hàn Quốc, Đài Loan… được gọi là những nước công nghiệp mới.

+ Một số nước đang phát triển có tốc độ công nghiệp hóa nhanh, song nông nghiệp vẫn đóng vai trò quan trọng như Trung Quốc, Ấn Độ. Ma-lai-xi-a, Thái Lan… Các nước này tập trung phát triển dịch vụ và công nghiệp chế biến để xuất khẩu, nhờ đó tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao.

+ Một số nước đang phát triển, nền kinh tế dựa chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp như Mi-an-ma. Lào, Băng-la-đét, Nê-pan Cam-pu-chia…

+ Ngoài ra, còn một số nước như Bru-nây, Cô-oét, A-rập Xê-Út… nhờ có nguồn dầu khí phong phú được nhiều nước công nghiệp đầu tư khai thác, chế biến, trở thành những nước giàu nhưng trình độ kinh tế – xã hội chưa phát triển cao.

– Một số quốc gia tùy thuộc loại nước nông – công nghiệp nhưng lại có các ngành công nghiệp rất hiện đại như các ngành điện tử, nguyên tử, hàng không vũ trụ… Đó là các nước Trung Quốc, Ấn Độ, Pa-ki-xtan…

– Hiện nay, ở châu Á số lượng các quốc gia có thu nhập thấp, đời sống nhân dân nghèo khổ… còn chiếm tỉ lệ cao.

* Một số nước châu Á có nền công nghiệp hiện đại: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Xin-ga-po, Ấn Độ,…

Mạng Xã Hội Là Gì Và Mang Những Đặc Điểm Nào?

Theo tổng hợp trên Wikipedia, mạng xã hội với cách gọi đầy đủ là “dịch vụ mạng xã hội” (tiếng Anh là “social network service”) hay “trang mạng xã hội”, là nền tảng trực tuyến nơi mọi người dùng để xây dựng các mối quan hệ với người khác có chung tính cách, nghề nghiệp, công việc, trình độ,… hay có mối quan hệ ngoài đời thực.

Mạng xã hội có nhiều dạng thức và tính năng khác nhau, có thể được trang bị thêm nhiều công cụ mới, và có thể vận hành trên tất cả các nền tảng như máy tính để bàn, máy tính xách tay, máy tính bảng hay điện thoại thông minh.

Mạng xã hội cho phép người dùng chia sẻ câu chuyện, bài viết, ý tưởng cá nhân, đăng ảnh, video, đồng thời thông báo về hoạt động, sự kiện trên mạng hoặc trong thế giới thực. Nếu như trong mô hình mạng xã hội truyền thống, ví dụ như sự kiện hội chợ, đã tồn tại từ lâu trong lịch sử thì mạng xã hội trên web giúp người dùng kết nối với những người sống ở nhiều vùng đất khác nhau, ở thành phố khác hoặc trên toàn thế giới.

Sự thành công của mạng xã hội có thể nhìn thấy được bằng mức độ phổ biến trong xã hội ngày nay, ví dụ như Facebook có hơn 2,3 tỷ người dùng hàng tháng theo số liệu mới nhất.

Tùy vào từng nền tảng mạng xã hội, nhưng thường các thành viên có thể liên hệ với bất kỳ thành viên nào khác. Trong một số trường hợp khác, các thành viên có thể liên hệ bất kỳ ai họ có mối liên hệ.

Như LinkedIn, mạng xã hội nghề nghiệp này yêu cầu thành viên phải quen biết nhau trong đời thực trước khi có thể liên hệ với nhau trên mạng. Một vài mạng xã hội khác cũng yêu cầu cần phải có sẵn mối quen biết để liên hệ.

Nhìn chung có nhiều mô hình mạng xã hội khác nhau, nhưng hầu hết mạng xã hội có những đặc điểm chung như:

+ Mạng xã hội là ứng dụng trên nền tảng Internet

+ Nội dung trên mạng xã hội là do người dùng tự sáng tạo, chia sẻ

+ Người dùng tạo ra hồ sơ cá nhân phù hợp cho trang hoặc ứng dụng được duy trì trên nền tảng mạng xã hội

+ Mạng xã hội tạo điều kiện cho sự phát triển của cộng đồng xã hội trên mạng bằng cách kết nối tài khoản của người dùng với tài khoản của các cá nhân, tổ chức khác.

Từ khi bắt đầu xuất hiện, mạng xã hội mang lại những lợi ích không nhỏ trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề, trong liên hệ công việc, tuyển dụng, trao đổi, học hỏi, kinh doanh, mua bán, tương tác xã hội…

Trong thời gian qua ở Việt Nam cũng có nhiều mô hình dịch vụ mạng xã hội ra đời như Zing Me, YuMe, Go, Keeng, Tamtay…, nhưng đều chưa thành công hay thành công ở mức hạn chế.

Vừa qua vào chiều 15/6/2023, Bộ trưởng Bộ Thông tin & Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng đã có buổi gặp gỡ với cộng đồng công nghệ thông tin – truyền thông phía Nam, trong đó Bộ trưởng khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam xây dựng một mạng xã hội mới.