Cấu Trúc Màng Lưới Nội Chất / Top 9 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Nhatngukohi.edu.vn

Lưới Nội Chất, Tế Bào Chất

1. Tế bào chất (cytoplasma)

Tế bào chất là khối nguyên sinh chất (protoplasma) nằm trong màng tế bào và bao quanh lấy nhân. Tế bào chất của một số tế bào có sự phân hóa thành 2 lớp:

– Lớp ngoại chất (exoplasma) ở ngoại vi, mỏng hơn và có độ nhớt cao hơn.

– Lớp nội chất (endoplasma) ở bên trong và bao quanh lấy nhân, chứa các bào quan như: mạng lưới nội sinh chất, phức hệ Golgi, ribosome, ty thể, lạp thể, thể lido…

Nếu loại bỏ các bào quan thì còn lại khối tế bào chất không có cấu trúc – gọi là chất nền hay thể trong suốt (cytosol).

Thể trong suốt chiếm gần một nửa khối lượng của tế bào. Thể trong suốt có nhiều nước, có thể đến 85%. Sau nước, protein là thành phần chủ yếu. Thể trong suốt chứa đựng một số lượng protein sợi xếp lại thành bộ khung của tế bào. Trong thể trong suốt có hàng nghìn enzyme và chứa đầy ribosome để tổng hợp protein. Gần một nửa enzyme được tổng hợp nên trên các ribosome là các protein của thể trong suốt. Do đó, nên xem thể trong suốt là một khối gel có tổ chức cao hơn là một dung dịch chứa enzyme.

Ngoài protein ra, trong thể trong suốt còn có các loại ARN như mARN, tARN chiếm 10% ARN của tế bào. Trong thể trong suốt còn có các chất như: lipid, gluxit, acid amin, nucleoside, nucleotide và các ion. Thỉnh thoảng có các hạt dầu và hạt glycogen với số lượng thay đổi và có thể mang từ vùng này qua vùng khác tùy hoạt tính của tế bào.

Thể trong suốt giữ nhiều chức năng quan trọng như:

– Là nơi thực hiện các phản ứng trao đổi chất của tế bào, là nơi gặp nhau của chuỗi phản ứng trao đổi chất. Sự biến đổi trạng thái vật lý của thể trong suốt có thể ảnh hưởng đến hoạt động của tế bào.

– Nơi thực hiện một số quá trình điều hòa hoạt động của các chất.

– Nơi chứa các vật liệu dùng cho các phản ứng tổng hợp các đại phân tử sinh học như các gluxit, lipid, glycogen.

Mọi hoạt động sống của tế bào đều xảy ra trong tế bào chất và do các bào quan riêng biệt phụ trách và được phối hợp điều hòa một cách nhịp nhàng.

2. Mạng lưới nội sinh chất (endoplasma reticulum)

Mạng lưới nội sinh chất được phát hiện bằng kính hiển vi điện tử. Mạng lưới nội sinh chất có ở mọi loại tế bào động vật và thực vật, gần đây, người ta cho rằng những cấu trúc tương tự như mạng lưới nội sinh chất được nhận thấy cả ở vi khuẩn.

Mạng lưới nội sinh chất chỉ được mô tả sau khi có kính hiển vi điện tử. Nó là một hệ thống các túi nhỏ, hoặc túi dẹt song song và nối thông nhau hình thành một mạng lưới 3 chiều. Mỗi ống hoặc túi đều được bọc bởi một cái màng lipoproteide có độ dày khoảng 75Å (tương tự màng tế bào). Về phía ngoài mạng lưới nội sinh chất thông với môi trường ngoài, và về phía trong nó thông với khoảng quanh nhân. Lòng mạng lưới nội sinh chất thường hẹp có đường kính từ 250Å – 500Å.

Mặt ngoài có thể có ribosome bám vào, hoặc có thể nhẵn không có ribosome bám. Vì vậy, người ta phân biệt 2 loại: mạng lưới nội sinh chất có hạt và mạng lưới nội sinh chất không hạt hay mạng lưới nội sinh chất nhẵn (hình 6.1).

Mức độ phát triển của mạng lưới nội sinh chất tùy thuộc vào từng loại tế bào và giai đoạn hoạt động của tế bào. Ở tế bào có hoạt động chế tiết mạnh thì mạng lưới nội sinh chất phát triển.

Mạng lưới nội sinh chất chứa:

– Phospholipid (35% trọng lượng khô)

– Protein (60% trọng lượng khô). Protein ở mạng lưới nội sinh chất bao gồm cả các enzyme, ví dụ như phosphatase.

Mạng lưới nội sinh chất có các chức năng sau:

– Tập trung và cô đặc một số chất từ ngoài tế bào vào hay ở trong tế bào. Những protein do ribosome bám ở ngoài màng tổng hợp được đưa vào lòng ống.

– Tham gia tổng hợp các chất: mạng lưới nội sinh chất có hạt tổng hợp protein, còn gluxit và lipid do mạng lưới nội sinh chất không hạt tổng hợp. – Vận chuyển và phân phối các chất. Những giọt lipid trong lòng ruột lọt vào trong tế bào biểu mô ruột (bằng cơ chế ẩm bào) được chuyền qua mạng lưới nội sinh chất để đưa vào khoảng gian bào.

– Màng của mạng lưới nội sinh chất cũng góp phần quan trọng vào sự hình thành các màng của ty thể và peroxysome bằng cách tạo ra phần lớn các lipid của các bào quan này.

1. Phạm Phan Địch, Nguyễn Văn Ngọc, Đỗ Kính (1984), Tế bào học, Mô học, Phôi

sinh học, Nxb Y học, Hà Nội.

2. Nguyễn Như Hiền, Trịnh Xuân Hậu (2000), Tế bào học, Nxb Đại học quốc gia

3. Phạm Thành Hổ (2002), Sinh học đại cương – Tế bào học, Di truyền học, Học

thuyết tiến hoá, Nxb Đại học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.

Tế Bào Chất Và Mạng Lưới Nội Chất

Là khối nguyên sinh chất nằm trong màng tế bào và bao quanh lấy nhân. Chiếm gần 50% khối lượng của tế bào, có thể chứa tời 85% là nước. Trong tế bào chất chứa đựng một số lượng protein sợi xếp thành bộ khung của tế bào. Ngoài ra còn chứa các loại ARN, lipid, glucid, acid amin, nulceoside, nuleotide và các ion.

SINH HỌC TẾ BÀO Chương 5: Tế bào chất và mạng lưới nội chất I/ Tế bào chất Là khối nguyên sinh chất nằm trong màng tế bào và bao quanh lấy nhân. Chiếm gần 50% khối lượng của tế bào, có thể chứa tời 85% là nước. Trong tế bào chất chứa đựng một số lượng protein sợi xếp thành bộ khung của tế bào. Ngoài ra còn chứa các loại ARN, lipid, glucid, acid amin, nulceoside, nuleotide và các ion. Chức năng của tế bào chất: Là nơi thực hiện các phản ứng trao đổi chất của tế bào Là nơi gặp nhau của chuỗi phản ứng trao đổi chất. Sự biến đổi trạng thái vật lý của thể trong suốt có thể ảnh hưởng đến hoạt động của tế bào. Nơi thực hiện một số quá trình điều hòa hoạt động của các chất. Nơi chứa các vật liệu cho các phản ứng tổng hợp các đại phân tử sinh học như các glucid, lipid, glycogen. Mọi hoạt động sống của tế bào đều xảy ra trong tế bào chất và do các bào quan riêng biệt phụ trách được phối hợp điều hòa một cách nhịp nhàng. II/ Mạng lưới nội chất Có ở mọi loại tế bào động vật và thực vật 2.1. Mạng lưới nội chất có hạt Cấu tạo: Là hệ thống các túi nhỏ, hoặc túi dẹt song song và nối thông nhau hình thành một mạng lưới 3 chiều. Nối thông với khoảng quanh nhân và màng sinh chất Có các hạt ribosome bám vào bề mặt Phần không hạt gọi là đoạn chuyển tiếp Phát triển ở tế bào tuyến chuyên hoặc ở các tế bào tiết Chức năng: Tạo các protein màng Tổng hợp các protein tiết Hình : cấu trúc mạng lưới nội chất Hình – Söï toång hôïp moät protein tieát (1) Chuoãi polypeptide ñöôïc toång hôïp ôû maïng noäi chaát nhaùm  tuùi cuûa heä löôùi. (2) Taïo glycoprotein. (3) Hình thaønh boùng vaän chuyeån. (4) Boùng vaän chuyeån ñöôïc taùch rôøi khoûi maïng noäi chaát nhaùm  ngoaïi vi cuûa teá baøo. 2.2. Mạng lưới nội chất không hạt Cấu tạo: Hệ thống ống chia nhánh với nhiều kích thước khác nhau Không có ribosome trên bề mặt Thông với lưới có hạt, không thông với khoảng quanh nhân, liên kết mật thiết với bộ Golgi Chức năng: Tổng hợp phospholipid, cholesterol Tổng hợp hormon steroid ở tinh hoàn, buồng trứng, và tuyến thượng thận Điều hòa lượng đường từ gan và khử độc Dự trữ Calcium Vận chuyển lipid ở biểu mô ruột

Cấu Trúc Và Chức Năng Của Màng Sinh Chất

Giải câu hỏi bài 2 trang 46 sách giáo khoa Sinh học 10: Mô tả cấu trúc và chức năng của màng sinh chất.

Mô tả cấu trúc và chức năng của màng sinh chất.

Trả lời câu hỏi bài 2 trang 46 sgk Sinh 10 về cấu trúc và chức năng màng sinh chất

Cấu trúc của màng sinh chất: Màng sinh chất được cấu tạo từ hai thành phần chính là phôtpholipit. Ngoài ra, ở các tế bào động vật và người màng sinh chất còn được bổ sung thêm nhiều phân tử colestêron có tác dụng làm tăng độ ổn định của màng sinh chất. Các prôtêin của màng tế bào có tác dụng như những kênh vận chuyển các chất ra vào tế bào cũng như các thụ thể tiếp nhận các thông tin từ bên ngoài. Màng sinh chất có thể coi như bộ mặt của tế bào và các thành phần như prôtêin, lipôprôtêin và glicôprôtêin làm nhiệm vụ như các giác quan (thụ thể), cửa ngõ và những dấu chuẩn nhận biết đặc trưng cho từng loại tế bào.

Chức năng của màng sinh chất:

+ Trao đổi chất với môi trường một cách có chọn lọc: Lớp phôtpholipit chi cho những phân tử nhỏ tan trong dầu mỡ (không phân cực) đi qua. Các chất phân cực và tích điện đều phải đi qua những kênh prôtêin thích hợp mới ra và vào được tế bào. Với đặc tính chỉ cho một số chất nhất định ra vào tế bào bên ngoài, ta thường nói màng sinh chất cho tính bán thấm.

– Màng sinh chất còn có các protein thụ thể thu nhận thông tin cho tế bào. Tế bào là một hệ mở nên nó luôn phải thu nhận các thông tin lí hóa học từ bên ngoài và phải trả lời được những kích thích của điều kiện ngoại cảnh.

– Màng sinh chất có các “dấu chuẩn” là glicôprôtêin đặc trưng cho từng loại tế bào. Nhờ vậy, mà các tế bào của cùng một cơ thể có thể nhận biết ra nhau và nhận biết được các tế bào “lạ” (tế bào của cơ thể khác).

-/-

Đặc Điểm, Cấu Trúc Và Chức Năng Của Mạng Lưới Nội Chất Trơn / Giải Phẫu Và Sinh Lý

các Mạng lưới nội chất trơn là một cơ quan tế bào màng có mặt trong các tế bào nhân chuẩn. Trong hầu hết các tế bào, nó được tìm thấy ở tỷ lệ nhỏ. Trong lịch sử, mạng lưới nội chất đã được chia thành mịn và thô. Sự phân loại này dựa trên sự hiện diện hay không của ribosome trong màng.

Sự trơn tru không có các cấu trúc này gắn liền với màng của nó và bao gồm một mạng lưới các ống dẫn và ống nối với nhau và phân bố khắp bên trong tế bào. Mạng này rộng và được coi là cơ quan tế bào lớn nhất

Organelle này chịu trách nhiệm cho quá trình sinh tổng hợp lipid, trái ngược với mạng lưới nội chất thô, có chức năng chính là tổng hợp và xử lý protein. Nó có thể được nhìn thấy trong tế bào như một mạng lưới hình ống được kết nối với nhau, với hình dạng không đều hơn so với mạng lưới nội chất thô.

Cấu trúc này lần đầu tiên được quan sát vào năm 1945 bởi các nhà nghiên cứu Keith Porter, Albert Claude và Ernest Fullam.

Chỉ số

1 Đặc điểm chung

2 cấu trúc

3 chức năng

3.1 Sinh tổng hợp lipid

3.2 Phospholipid

3,3 Cholesterol

3,4 Ceramides

3.5 Lipoprotein

3.6 Xuất khẩu lipit

3.7 Mạng lưới nội soi

3.8 Phản ứng giải độc

3.9 Kháng thuốc

3.10 Gluconeogenesis

4 Tài liệu tham khảo

Đặc điểm chung

Mạng lưới nội chất trơn là một loại mạng lưới có mạng lưới các ống bị rối loạn, thiếu các ribosome. Chức năng chính của nó là tổng hợp lipit cấu trúc màng trong các tế bào nhân chuẩn và hormone. Nó cũng tham gia vào phản ứng cân bằng nội môi canxi và giải độc tế bào.

Enzymatic, mạng lưới nội chất trơn là linh hoạt hơn so với thô, cho phép nó thực hiện nhiều chức năng hơn.

Không phải tất cả các tế bào đều có một mạng lưới nội chất mịn đồng nhất và đồng nhất. Trên thực tế, trong hầu hết các tế bào, các vùng này khá khan hiếm và sự khác biệt giữa mạng lưới trơn và lưới thô thực sự không rõ ràng lắm.

Tỷ lệ giữa mịn và thô phụ thuộc vào loại tế bào và chức năng. Trong một số trường hợp, cả hai loại mạng không chiếm các vùng riêng biệt về mặt vật lý, với các vùng nhỏ không có ribosome và các vỏ khác.

Địa điểm

Trong các tế bào nơi chuyển hóa lipid hoạt động, mạng lưới nội chất trơn rất phong phú.

Ví dụ là các tế bào của gan, vỏ thượng thận, tế bào thần kinh, tế bào cơ, buồng trứng, tinh hoàn và tuyến bã nhờn. Các tế bào tham gia vào quá trình tổng hợp hormone có các khoang lớn của mạng lưới trơn, nơi các enzyme được tìm thấy để tổng hợp lipid nói trên.

Cấu trúc

Mạng lưới nội chất mịn và thô tạo thành một cấu trúc liên tục và là một ngăn duy nhất. Màng lưới được tích hợp với màng nhân.

Cấu trúc của mạng lưới khá phức tạp vì có một số miền trong một ống dẫn liên tục (không có ngăn), được ngăn cách bởi một màng duy nhất. Các khu vực sau đây có thể được phân biệt: vỏ hạt nhân, mạng ngoại vi và mạng hình ống liên kết với nhau.

Sự phân chia lịch sử của mặt kẻ ô bao gồm thô và mịn. Tuy nhiên, sự tách biệt này là vấn đề tranh luận gay gắt giữa các nhà khoa học. Các bể có ribosome trong cấu trúc của chúng và do đó mạng lưới được coi là thô. Ngược lại, các ống thiếu các bào quan này và vì lý do này mà võng mạc được gọi là mịn.

Mạng lưới nội chất trơn láng phức tạp hơn so với thô. Loại thứ hai có kết cấu dạng hạt hơn, nhờ sự hiện diện của ribosome.

Hình thức điển hình của mạng lưới nội chất trơn là một mạng lưới đa giác ở dạng ống. Những cấu trúc này rất phức tạp và có số lượng cành cây cao, tạo vẻ ngoài tương tự như miếng bọt biển.

Trong một số mô được nuôi trong phòng thí nghiệm, mạng lưới nội chất trơn được nhóm lại thành các bộ bể chứa xếp chồng lên nhau. Chúng có thể lan dọc theo tế bào chất hoặc xếp hàng với lớp vỏ hạt nhân.

Chức năng Sinh tổng hợp lipid

Mạng lưới nội chất trơn là khoang chính trong đó lipid được tổng hợp. Do bản chất lipid của chúng, các hợp chất này không thể được tổng hợp trong môi trường nước, chẳng hạn như cytosol của tế bào. Tổng hợp của nó phải được thực hiện liên kết với các màng hiện có.

Các phân tử sinh học này là cơ sở của tất cả các màng sinh học, bao gồm ba loại lipit cơ bản: phospholipids, glycolipids và cholesterol. Thành phần cấu trúc chính của màng là phospholipids.

Phospholipids

Đây là những phân tử lưỡng tính; Chúng có đầu cực (ưa nước) và chuỗi carbon không phân cực (hydrobica). Nó là một phân tử glycerol liên kết với axit béo và nhóm phốt phát.

Quá trình tổng hợp xảy ra ở phía cytosol của màng lưới nội chất. Coenzyme A tham gia vào việc chuyển axit béo thành glycerol 3 phosphate. Nhờ một enzyme neo trong màng, phospholipids có thể được đưa vào.

Các enzyme có mặt ở tế bào tế bào của màng lưới có thể xúc tác sự liên kết của các nhóm hóa học khác nhau với phần ưa nước của lipid, tạo ra các hợp chất khác nhau như phosphatidylcholine, phosphatidylserine, phosphatidyletanolamine hoặc phosphatidletin.

Khi lipid được tổng hợp, chúng chỉ được thêm vào một bên của màng (nhớ rằng màng sinh học được sắp xếp như một lớp lipid kép). Để tránh sự tăng trưởng không đối xứng của cả hai bên, một số phospholipid phải di chuyển đến nửa kia của màng.

Tuy nhiên, quá trình này không thể xảy ra một cách tự nhiên, vì nó đòi hỏi sự đi qua của vùng cực của lipid bên trong màng. Flipase là các enzyme chịu trách nhiệm duy trì sự cân bằng giữa các lipid của hai lớp.

Cholesterol

Các phân tử cholesterol cũng được tổng hợp. Về mặt cấu trúc, lipid này bao gồm bốn vòng. Nó là một thành phần quan trọng trong màng huyết tương động vật và cũng cần thiết cho sự tổng hợp hormone.

Cholesterol điều chỉnh tính lưu động của màng và đó là lý do tại sao nó rất quan trọng trong các tế bào động vật.

Ảnh hưởng cuối cùng đến tính lưu động phụ thuộc vào nồng độ cholesterol. Ở mức bình thường của cholesterol trong màng và khi đuôi của lipit tạo ra nó dài, cholesterol hoạt động bất động chúng, làm giảm tính lưu động của màng.

Hiệu quả là ngược lại khi mức cholesterol giảm. Khi tương tác với đuôi của lipit, tác động gây ra là sự phân tách của chúng, do đó làm giảm tính lưu động.

Ceramides

Sự tổng hợp của ceramide xảy ra trong mạng lưới nội chất. Ceramide là tiền chất lipid quan trọng (không phải là dẫn xuất glycerol) cho màng sinh chất, chẳng hạn như glycolipids hoặc sprialomyelin. Sự chuyển đổi ceramide này xảy ra trong bộ máy Golgi.

Lipoprotein

Mạng lưới nội chất trơn có nhiều trong tế bào gan (tế bào gan). Trong ngăn này xảy ra sự tổng hợp lipoprotein. Những hạt này chịu trách nhiệm vận chuyển lipid đến các bộ phận khác nhau của cơ thể.

Xuất khẩu lipid

Các lipid được xuất khẩu thông qua các túi tiết. Khi các sinh khối được cấu thành bởi lipit, màng của các túi có thể hợp nhất với chúng và giải phóng nội dung cho một cơ quan khác.

Mạng lưới nội soi

Trong các tế bào cơ vân có một loại lưới nội chất trơn đặc biệt cao được hình thành bởi các ống gọi là lưới nội soi sarcoplasmic. Khoang này bao quanh mỗi myofibril. Nó được đặc trưng bởi có máy bơm canxi và điều chỉnh sự hấp thu và phát hành của chúng. Vai trò của nó là trung gian co bóp và thư giãn cơ bắp.

Khi có nhiều ion canxi trong mạng lưới sarcoplasmic so với sarcoplasm, tế bào ở trạng thái nghỉ.

Phản ứng giải độc

Mạng lưới nội chất trơn của tế bào gan tham gia vào các phản ứng giải độc để loại bỏ các hợp chất hoặc thuốc độc hại ra khỏi cơ thể.

Một số họ enzyme, như cytochrom P450, xúc tác các phản ứng khác nhau ngăn chặn sự tích tụ các chất chuyển hóa có khả năng gây độc. Những enzyme này thêm các nhóm hydroxyl vào các phân tử “có hại” kỵ nước và được tìm thấy trong màng.

Sau đó, một loại enzyme khác gọi là UDP glucuronyl transferase, bổ sung các phân tử có điện tích âm, ra đời. Đây là cách các hợp chất rời khỏi tế bào, đến máu và được loại bỏ bởi nước tiểu. Một số loại thuốc được tổng hợp trong mạng lưới là barbiturat và cả rượu.

Kháng thuốc

Khi nồng độ chất chuyển hóa độc hại cao lưu thông, các enzyme tham gia vào các phản ứng giải độc này được kích hoạt, làm tăng nồng độ của chúng. Tương tự như vậy, trong những điều kiện này, mạng lưới nội chất trơn sẽ tăng diện tích bề mặt của nó lên đến hai lần chỉ trong vài ngày.

Đó là lý do tại sao tỷ lệ kháng với một số loại thuốc được tăng lên và để đạt được hiệu quả cần phải sử dụng liều cao hơn. Phản ứng kháng thuốc này không hoàn toàn cụ thể và có thể dẫn đến kháng một số loại thuốc cùng một lúc. Nói cách khác, việc lạm dụng một loại thuốc nào đó có thể dẫn đến sự kém hiệu quả của một loại thuốc khác.

Gluconeogenesis

Gluconeogenesis là một con đường trao đổi chất trong đó sự hình thành glucose từ các phân tử khác với carbohydrate xảy ra.

Trong mạng lưới nội chất trơn là enzyme glucose 6 phosphatase, chịu trách nhiệm xúc tác cho sự chuyển glucose 6 phosphate thành glucose.

Tham khảo

Borgese, N., Francolini, M., & Snapp, E. (2006). Kiến trúc lưới nội chất: cấu trúc trong thông lượng. Ý kiến ​​hiện tại về sinh học tế bào, 18(4), 358-364.

Campbell, N. A. (2001). Sinh học: Khái niệm và mối quan hệ. Giáo dục Pearson.

Tiếng Anh, A. R., & Voeltz, G. K. (2013). Cấu trúc lưới nội chất và liên kết với các bào quan khác. Quan điểm của cảng xuân lạnh trong sinh học, 5(4), a013227.

Eynard, A.R., Valentich, M.A., & Rovasio, R.A. (2008). Mô học và phôi học của con người: cơ sở tế bào và phân tử. Ed. Panamericana Y tế.

Voeltz, G. K., Rolls, M.M., & Rapoport, T. A. (2002). Cấu trúc tổ chức của mạng lưới nội chất. Báo cáo EMBO, 3(10), 944-950.

Màng Sinh Chất (Màng Tế Bào)

Năm 1972,Singơ(Singer) và Nicolson (Nicolson) đã đưa ra mô hình cấu tạo màng sinh chất được gọi là mô hình khảm động. Theo mô hình này, màng sinh chất có cấu tạo gồm 2 thành phần chính là phôtpholipit và prôtêin. Ngoài ra, ở các tế bào động vật và người, màng sinh chất còn có nhiều phân tử colestêron làm tăng độ ổn định của màng sinh chất. Các prôtêin của màng tế bào có tác dụng như những kênh vận chuyển các chất ra vào tế bào cũng như các thụ thể tiếp nhận các thông tin từ bên ngoài. Có thể nói, màng sinh chất như bộ mặt của tế bào và các thành phần của màng sinh chất như prôtêin, glicôlipit và glicôprôtêin làm nhiệm vụ như các giác quan (thụ thể), cửa ngõ (kênh) và những dấu chuẩn nhận biết đặc trưng cho từng loại tế bào (hình 10.2). 

Hình 10.2. Cấu trúc màng sinh chất theo mô hình khảm động

b) Chức năng của màng sinh chất

Với thành phần cấu tạo chủ yếu là phôtpholipit và prôtêin nên màng sinh chất có các chức năng chính sau đây :

– Trao đổi chất với môi trường một cách có chọn lọc : Lớp phôtpholipit chỉ cho những phân tử nhỏ tan trong dầu mỡ (không phân cực) đi qua. Các chất phân cực và tích điện đều phải đi qua những kênh prôtêin thích hợp mới ra vào được tế bào. Với đặc tính chi cho một số chất nhất định ra vào tế bào nên người ta thường nói càng sinh chất có tính bán thấm.– Màng sinh chất còn có các prôtêin thụ thể thu nhận thông tin cho tế bào. Tế bào là một hệ mở luôn thu nhận các thông tin lí hoá học từ bên ngoài và đưa ra vững đáp ứng thích hợp trước sự thay đổi của điều kiện ngoại cảnh. Ví dụ, màng sinh chất của tế bào thần kinh ở người có các thụ thể nhận tín hiệu là các chất dẫn truyền xung thần kinh từ tế bào phía trước giải phóng ra, nhờ vậy xung thần kinh được truyền từ tế bào thần kinh này sang tế bào thần kinh khác.

– Màng sinh chất có các “dấu chuẩn” là glicôprôtêin đặc trưng cho từng loại tế bào. Nhờ vậy, các tế bào của cùng một cơ thể có thể nhận biết nhau và nhận biết các tế bào “lạ” (tế bào của cơ thể khác).