Cấu Trúc Của Dass / Top 5 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Nhatngukohi.edu.vn

Modale Satzverbindung (I): (An)Statt Dass/Zu, Als Dass, Stattdessen, (An)Statt

Nebensatz: anstatt dass/zu

Bei einer Nebensatzverbindung mit der Konjunktion anstatt dass werden zwei Sätze verbunden, bei denen der Hauptsatz eine Handlung beschreibt, die anstelle bzw. als Ersatz der im Nebensatz beschriebenen (nicht realisierten) Handlung erfolgt. Deshalb werden diese Sätze auch als Substitutivsätze bezeichnet. Bei einem Nebensatz mit anstatt steht das Verb am Ende.

Beispielsatz: anstatt dassAnstatt dass er seine Hausaufgaben macht, geht er mit seinen Freunden ins Kino.

Beispiel:„Handlung 1″ (nicht realisiert) – „Ersatzhandlung” (anstelle von Handlung 1) „Hausaufgaben machen” – „ins Kino gehen”

Die Umstellung von Haupt- und Nebensatz ist möglich:

Beispiel: anstatt (Umstellung)Anstatt dass er die Hausaufgaben macht, geht er lieber mit seinen Freunden ins Kino. Er geht lieber mit seinen Freunden ins Kino, anstatt dass er die Hausaufgaben macht.

Bei identischem Nominativ im Haupt- und Nebensatz kann der Nominativ im Nebensatz weggelassen werden. Aus anstatt dass wird anstatt zu + Infinitiv.

Beispiel: anstatt dass/ anstatt zuAnstatt dass er seine Hausaufgaben macht, geht er mit seinen Freunden ins Kino.Anstatt die Hausaufgaben zu machen, geht er lieber mit seinen Freunden ins Kino.

Nebensatz (Variante): als dass

Eine Variante von anstatt dass ist als dass. Allerdings ist hier keine Umstellung möglich. Der Nebensatz muss immer hinter dem Hauptsatz stehen.

Beispiel: als dass (keine Umstellung) Er geht lieber mit seinen Freunden ins Kino, als dass er die Hausaufgaben macht.

Hauptsatz: stattdessen

Der Nebensatzverbindung mit anstatt dass bzw. anstatt zu entspricht die Hauptsatzverbindung mit stattdessen. Der Hauptsatz markiert die „Ersatzhandlung” mitstattdessen. Die nicht „realisierte Handlung” wird durch die Negation markiert.

Beispiel: stattdessen Er macht die Hausaufgaben nicht, stattdessen geht er mit seinen Freunden ins Kino.

Präpositionaler Ausdruck: statt (+Genitiv)

Anstelle einer Haupt- oder Nebensatzverbindung mit stattdessen bzw. anstatt dass kann ein präpositionaler Ausdruck mit statt stehen. Statt ist eine Präposition mit Genitiv. Der präpositionale Ausdruck mit stat t steht in Position 1 oder im Satz. Die Position im Satz richtet sich nach den allgemeinen Regeln für die Wortposition.

Beispiel: statt + GenitivStatt des Kaufs eines Autos empfehlen wir Leasing. Wir empfehlen Leasing statt des Kaufs eines Autos.

Beachte: Der präpositionale Ausdruck wird nie durch ein Komma vom Rest des Satzes getrennt.

Umgangssprachlich wird statt auch mit Dativ verwendet.

Beispiel: statt + Genitiv/Dativmit Genitiv: Statt des Busses habe ich die S-Bahn genommen.mit Dativ: Statt dem Bus habe ich die S-Bahn genommen.

Zurück zum Kapitel: Komplexe Sätze Zum Inhaltsverzeichnis – Deutsche Grammatik 2.0

Cấu Trúc Của Giày Sneaker

Cấu trúc của giày sneaker

HanghieuVIP

2 năm trước

818 lượt xem

Cấu trúc Giày sneaker?

Mặc dù ra đời ở đâu, được thiét kế mẫu mã như thế nào thì một đôi giày sneaker truyền thống đều có cấu trúc cơ bản sau:

Upper: Đây là toàn bộ phần thân trên của giày sneaker bao gồm cả vật liệu, thiết kế, màu sắc… Đây cũng là phần quyết định nên thẩm mỹ của một đôi giày.

Aglets: Đầu mút dây giày thường được làm từ các chấ liệu như: Nhựa, carbon fiber, vàng đồng…

Eyelet: Đây được coi là lỗ xỏ dây sneaker sneaker được thiết kế một lỗ đục xuyên ra lớp chất liệu làm giày và có bọc 2 mảnh vật liệu bằng nhựa, kim loại… 2 đầu. Việc sử dụng 2 mảnh vật liệu giúp giữ cố định lỗ xỏ và hạn chế lỗ không bị rách.

Tongue: Đây là phần chất liệu đệm giữa phần mui giày và mu bàn chân được gọi là lưỡi gà. Lưỡi gà có tác dụng che chắn phần bị hở của lacing và hạn chế sự ma sát giữa dây giày và chân.

Sock liner: Một phần không thể thiếu của đôi giày  là miếng lót giày. Miếng lót giày sẽ giúp mang lại cảm giác êm ái, khử mùi chân, tăng độ bền của giày.

Stitching: Được gọi là đường chỉ may, đường khâu

Quarter là phần thân sau của giày sneaker .

Sole: Sole là phần dế giày, tiếp xúc trực tiếp với bề mặt đất. Đế giày được làm từ nhiều chất liệu như: Cao su, PVC, da…

Lace tag: Đây là điểm nhấn và là phần thể hiện thương hiệu giày

Last được gọi là khuôn giày. Khuôn giày được làm giống hình dạng bàn chân được thợ đóng giày sử dụng để chế tạo, sửa chữa giàysneaker . Thông thường khuôn giày được làm từ gỗ hoặc kim loại, nhựa cứng. Phần khuôn giày có tác dụng rất quan trọng trong việc đôi giày có thoải mái và có đẹp hay không.

Foxing: Đây là một miếng được lắp lên giày có tác dụng trang trí thẩm mỹ cho giày.

Toe là phần mũi giày

Vamp: Đây là phần thân trước của giày

Cushion là bộ đệm bên trong giày

Material là chất liệu tạo nên đôi giày

Leather: Các loại da

Insole: đây là phần đế trong.

Misole phần đế giữa có nhiệm vụ hấp thụ chất động trong giày

Outsole là phần đế ngoài trực tiếp tiếp xúc với mặt đất

Toe box là phần da trên của mũi giày sneaker

Heel là gót giày, phần này thường được làm từ chất liệu giống đế giày để hỗ trợ gót chân

TPU là miếng nhựa cứng giữ độ cứng cho đế giày sneaker bóng rổ

Wedge là phần lót trong của gót giày

Tonal chỉ những đôi giày đơn sắc

Colorway chỉ những đôi giày có sự kết hợp nhiều màu sắc

Traction là vân đế – phần tiếp xúc trực tiếp với mặt đất.

Tin khác:

– handheld đồng hồ -  là một trong những phát mình vĩ đại

Cấu Trúc Make Sb Và Các Cấu Trúc Liên Quan Của Make

Cấu trúc make sb là một trong những chủ điểm thông dụng nhưng vô cùng đơn giản.

Make trong tiếng anh nghĩa là “làm”, “khiến”.

Negative moods will make things worse.Tâm trạng tiêu cực sẽ khiến mọi thứ tồi tệ hơn.

He made her cry.Anh ấy đã làm cô ấy khóc.

2. Các cấu trúc make sb trong tiếng Anh

Cấu trúc make sb trong tiếng Anh được sử dụng rộng rãi ở cả giao tiếp hàng ngày và trong những bài thi trên trường lớp.

Cấu trúc make sb này được sử dụng nhiều trong các bìa thi với ý nghĩa bắt/khiến ai đó làm gì.

Ai/cái gì bắt/khiến ai làm gì

Một số cấu trúc tương đồng với cấu trúc make sb do sth

Cấu trúc make to V là cấu trúc có nghĩa là “bị bắt”, “bị buộc”. Cấu trúc này thường là dạng bị động của cấu trúc make sb bên trên.

Ai bị buộc/bắt làm gì

My mom make me wake up at 5 o’clock → I was made to wake up at 5 a.m. Tôi bị buộc phải thức dậy lúc 5 giờ sáng.

My sister made me finish my homework before I went out. I was made to finish my homework before I went out. Tôi phải hoàn thành bài tập về nhà rồi mới được đi chơi

3. Cấu trúc make possible/impossible

Nhắc đến cấu trúc make sb thì bên cạnh đó chúng ta sẽ nhớ ngay đến cấu trúc make possible/impossible.

Khiến điều gì đó thuận lợi, dễ dàng, nhanh hơn.

Khi theo sau possible là một động từ nguyên mẫu có to chúng ta sử dụng “it” phía trước nó.

Cấu trúc make possible/impossible N/ cụm N

Theo sau possible là một danh từ hoặc một cụm danh từ thì chúng ta không dùng “it” như ở cấu trúc trên.

4. Bài tập về cấu trúc make somebody

Áp dụng cấu trúc make sb đã học trong bài trên chuyển các câu sau từ tiếng Việt sang tiếng Anh.

Mẹ tôi bắt tôi đi chợ mỗi ngày.

Anh ấy khiến cô ấy đến trường.

Vụ tai nạn đã khiến anh ta mất đi một cánh tay.

Hành động nhỏ của bạn khiến tôi vô cùng ấm áp.

Anh ấy luôn khiến mọi người lo lắng.

Chiếc bánh kem lớn khiến lũ trẻ vô dùng thích thú.

My mother made me go to the market every day.

He made her go to school.

The accident made him lose an arm.

Your little action makes me extremely warm.

He always makes people worry.

The large cake makes the children who are not using it amused.

Cấu Trúc Của Da Người

Trung bì là lớp thứ 2, nằm dưới thượng bì và là vùng dày nhất của da, độ dày cũng khác nhau tùy từng vùng của cơ thể, từ 1/10 mm đến vài millimet gồm có các biểu mô liên kết để giữ hạ thượng bì và lớp hạ bì.

Trung bì và thượng bì ngăn cách nhau bởi màng đáy (hay còn gọi là màng cơ bản), màng đáy dày chừng 0,5 mm. Các dịch sẽ từ lớp trung bì ngấm qua màng đáy để nuôi dưỡng lớp thượng bì.

Ranh giới giữa thượng bì và trung bì không phải là một đường thẳng mà là đường lượn sóng, phần sóng nhô lên phía trên là gai bì (hay nhú bì hay còn gọi là trung bì nông), phần sóng lượn xuống dưới giữa 2 gai bì (hai nhú bì) gọi là mào liên gai (hay mào liên nhú).

Cấu trúc của màng đáy gồm có 4 phần:

+ Nửa cầu nối gian bào (Hemidermosome), đường kính của nửa cầu này khoảng 500- 1000nm, gồm các sợi tơ Keratin (tonofilament); sợi bám để nối màng bào tương với lá đặc (Lamina densa).

+ Lá sáng (Lamina lucida): dày khoảng 20- 40 nm.

+ Lá đặc (Lamina densa): dày chừng 30-40 nm, trong đó chủ yếu là Colagen lớp IV.

+ Dưới lá đặc ( Sub- lamina densa) có nhiều bó vi sợi bản chất là Colagen, chủ yếu là Colagen typ VII.

Thành phần sinh hóa chủ yếu của màng đáy (BMZ) là Colagen typ IV (lamina densa) và một số Glucoprotein bao gồm Laminin 322 (lamina lucida). Màng đáy gắn kết với tế bào đáy bởi các hemidesmosome, đồng thời gắn kết với các trung bì thông qua các sợi néo (anchoring filaments /anchoring fibrills). Các sợi néo ở thượng bì (anchoring filaments) có kích thước 5-7 nm giàu Laminin 322 (laminin5) và 311 (laminin 6) liên kết với a6 beta4 integrin trên bề mặt tế bào sừng. Còn các sợi néo trung bì (anchoring fibrils) có kích thước 20- 60 nm, là những dải không đều, chéo nhau và trông giống như hình đuôi chim ở cả hai đầu, cấu tạo chủ yếu là Collagen typ VII liên kết giữa lá đặc với màng néo ở trung bì. Khi có bất thường ở sợi néo sẽ làm cho vùng liên kết trung bì và thượng bì (DEJ) lỏng lẻo dễ bị tổn thương như gặp trong bệnh lý thượng bì bọng nước bẩm sinh.

2.2.1 Trung bì nông (papillary dermis)

Lớp này là lớp nuôi dưỡng, rất mỏng chỉ khoảng 1,1 mm, trên bề mặt có những gai nhô lên còn gọi là nhú bì hay gai bì (papille) ăn sâu vào thượng bì, các gai do tổ chức liên kết non tạo nên, ở đó có chứa nhiều mao mạch, các nhú bì có chiều cao và độ lớn khác nhau tùy theo từng vùng da cơ thể, da ở lòng bàn tay, bàn chân các nhú có khi cao tới 0,2 mm, còn ở da mặt thì các nhú lại rất mỏng.

2.2.2 Trung bì chính thức hay còn gọi là trung bì sâu (reticular dermis)

Đây là lớp chống đỡ, dày khoảng 0,4 mm, gồm có :

– Những sợi chống đỡ:

+ Sợi keo hay còn gọi là sợi hồ (collagen Fiber), là chất liệu chính làm cho da bền vững chống lại các sang chấn để bảo vệ các tổ chức ở bên trong cơ thể, bản chất các sợi Collagen là các Protein với 3 chuỗi polypeptide, gồm 20 loại acide amin khác nhau, chủ yếu là Glycin và Argenin. Sợi keo có thể bị phá hủy bởi men Collagease do vi khuẩn tiết ra và được thay thế bằng các sợi mới. Sợi keo là chất liệu làm cho da vững chắc trước các tác động cơ học, lý học, hóa học từ bên ngoài. Sợi keo tập trung chủ yếu ở trung bì sâu, một ít ở nhú bì, nang lông, tuyến bã, tuyến mồ hôi, quanh mạch máu.

+ Sợi chun (Elastic fiber hay còn gọi sợi đàn hồi): là một thành phần của các mô liên kết ở trung bì có tác dụng giúp da đàn hồi, đây là những sợi mỏng, lượn sóng hoặc thành từng đoạn có kích thước từ 1 đến 3 micromet, chiếm đến 2-4 % trọng lượng khô của trung bì, bắt màu đen khi nhuộm bạc, bắt màu nâu khi nhuộm Accin. Đột biến gen của một trong thành phần của sợi chun gặp trong bệnh nhão da (Cutix laxa).

+ Sợi lưới: sợi lưới tạo thành mạng lưới mỏng bao quanh mạch máu, tuyến mồ hôi, cấu trúc giống sợi keo.

+ Sợi liên võng (Reticulum fiber) : là dạng đặc biệt của sợi tạo keo, tập trung ở trung bì nông, phần phụ của da, mạch máu.

– Các chất cơ bản : các chất cơ bản là một màng nhày gồm Trypophan, Tyrosin, Mucopolycharcarit, Hyaluronic.

– Tế bào:

+ Các tế bào xơ hình thoi hay hình Amip, có nhân to hình bầu dục, chứa nhiều hạt Ty lạp thể, có tác dụng làm da lên sẹo.

+ Tổ chức bào hình thoi hoặc hình sao, nó có thể biến thành thực bào, đại thực bào.

+ Dưỡng bào (Mastocyte ): tham gia vào quá trình chuyển hóa Heparin, Histamin, acid Hyaluronic.

– Mạch máu: trung bì chỉ có những mạch máu nhỏ tập trung ở gai bì và ở quanh các tuyến.

– Thần kinh: ở da có 2 loại thần kinh

+ Thần kinh não tủy có vỏ Myelin, có nhánh đi riêng.

+ Thần kinh giao cảm không có vỏ Myelin chạy trong các bao mạch máu.

Thần kinh da được tạo thành từ đám rối ở hạ bì, sau đó phân nhánh chạy thẳng góc tới các đầu gai bì rồi tận cùng ở lớp hạt, ngoài những nhánh này, thần kinh da còn còn có các nhánh cuộn tròn lại thành những tiểu thể. Người ta thấy có 5 loại tiểu thể:

+ Tiểu thể Vanter Pacini khư trú ở đáy trung bì, có nhiều ở lòng ngón tay, chi phối xúc giác (cảm giác sờ).

+ Tiểu thể Buffini chi phối cảm giác nông.

+ Tiểu thể Krause chi phối cảm giác lạnh.

+ Tiểu thể Golgi – Mazzoni chi phối xúc giác.

+ Đĩa Meckel – Ranvier và tiểu thể Meissner cho cảm giác tiếp xúc.

2.3 Hạ bì (Subcutaneous layer)

Hạ bì còn gọi là lớp mỡ dưới da, chứa mô liên kết, nhiều mạch máu, thần kinh … để đảm bảo cho da sống và thực hiện các chức năng của mình, cấu trúc gồm nhiều tầng ngăn, liên kết với nhau tạo thành nhiều ô, chứa nhiều chất mỡ. Ở hạ bì có nhiều mạch máu lớn.

Độ dày của da tùy thuộc vào thể trạng từng người, đây là kho dự trữ mỡ lớn nhất cơ thể, có vai trò bảo vệ cơ học chống lại những sức ép, chấn động đột ngột, có vai trò điều hòa nhiệt độ cơ thể.

2.4 Các thành phần phụ của da 2.4.1 Tuyến mồ hôi (Sweat glands)

Tuyến mồ hôi là tuyến ngoại tiết, có loại đổ trực tiếp qua da, có loại đổ ở phần ngoài của nang lông. Có 2 loại tuyến mồ hôi:

* Tuyến bảo toàn (Eccrine glands): được phân bố trên khắp bề mặt của da, trừ niêm mạc, tùy vùng cơ thể mà số lượng tuyến mồ hôi khác nhau, ở lòng bàn tay và bàn chân có khoảng 620 cái/1cm2, đùi có khoảng 120 cái/1cm2, toàn bộ cơ thể có khoảng 2,5 triệu tuyến mồ hôi.

Cấu tạo gồm có 3 phần:

+ Cầu bài tiết hình tròn khu trú ở trung bì sâu hoặc hạ bì, có 2 lớp tế bào giữa là tế bào bài tiết, xung quanh có lớp tế bào dẹt bao bọc.

+ Ống dẫn đoạn qua trung bì có cấu trúc như phần cầu nhưng ít bài tiết.

+ Ống dẫn đoạn qua thượng bì có đoạn xoắn ốc, càng ra ngoài càng xoắn nhiều, gồm một lớp tế bào có nhiễm hạt sừng. Tuyến mồ hôi có tác dụng điều hòa thân nhiệt, góp phần làm cho thân nhiệt hằng định. Sự bài tiết mồ hôi được điều chỉnh bởi thần kinh giao cảm ở xung quanh tuyến, các trung khu dọc theo tủy sống, vùng dưới đồi. Các chất như Pilocarpin, Cholin, Adrenalin…làm tăng tiết mồ hôi, ngược lại Atropin lại làm giảm tiết mồ hôi.

* Tuyến đầu hủy ( Apocrine glands)

Tuyến này tập trung ở mặt, quanh hậu môn, quanh đầu vú, nách.

Cấu tạo gồm có cuộn bài tiết là một ống đơn thuần gồm lớp tế bào hình trụ hoặc hình hộp nằm trên lớp màng đáy có ống dẫn đổ vào cổ nang lông phía trên tuyến bã, một số đổ trực tiếp lên mặt da. Trong quá trình bài tiết một phần bào tương của tế bào bị tống ra ngoài.

Tuyến này tiết ra chất lỏng như dầu, có khi có màu. Ban đầu chất này không mùi, khi lên đến mặt da do tác động của vi khuẩn có thể có mùi, đặc biệt là gây hôi nách.

2.42 Tuyến bã (Sebaceuos glands)

Tuyến bã là tuyến ngoại tiết nằm cạnh nang lông, đổ chất tiết vào nang lông mở ra ở da, tạo da mềm mại, chống thấm nước, chống khô da.

Mỗi tuyến bã có nhiều thùy, mỗi thùy gồm nhiều tế bào: ngoài cùng là những tế bào trẻ giống như lớp cơ bản, rồi đến lớp tế bào to chứa những hạt mỡ, trong cùng có những lớp tế bào chứa đầy mỡ làm căng vỡ tế bào, rồi chảy ra ngoài tạo thành chất bã(Sebum). Ống tiết được cấu tạo bởi tế bào sừng. Chất mỡ được đào thải qua ống tuyến lên mặt da.

Có 2 loại tuyến bã nang lông:

– Tuyến bã nang lông dài: nằm ở da vùng đầu, râu, lông nách, lông mu. Tại những nơi này tuyến bã không phát triển.

– Tuyến bã nang lông tơ: nằm ở khắp nơi trên cơ thể, trừ lòng bàn tay, bàn chân không có tuyến bã.

Tuy tuyến bã nang lông tơ có kích thước nhỏ hơn tuyến bã nang lông dài nhưng tế bào tuyến lại hoạt động mạnh hơn, có kích thước lớn hơn, bài tiết chất bã nhiều hơn.

Ở mặt tuyến bã phát triển mạnh gấp 5 lần ở những nơi khác. Số lượng tuyến bã thay đổi khác nhau tùy theo các vùng cơ thể. Ở da đầu, mặt, ngực, lưng, tầng sinh môn có từ 400-900 tuyến/cm2 da, các vùng còn lại có khoảng 100 tuyến/1 cm2 da.

Tuyến bã ở miệng (hạt fordyce) và ở rãnh quy đầu (tuyến Tyson) không đổ qua ống tuyến mà bài tiết trực tiếp qua niêm mạc.

2.4.3 Nang lông (Hair follicles)

Lông là biến dạng nhiễm Keratin của thượng bì. Nang lông là phần lõm sâu xuống của thượng bì chứa sợi lông và tiếp cận với tuyến bã.

Cấu tạo của nang lông bao gồm: chất cơ bản của lông, sợi lông, lớp vỏ trong, lớp vỏ ngoài, gai lông. Các tế bào hắc tố có trong phần chất cơ bản của lông tạo nên màu sắc của sợi lông.

Ở người có 2 loại lông:

+ Lông nhẵn hay còn gọi là lông tơ: là sợi lông ngắn bao phủ phần lớn cơ thể trừ lòng bàn tay, bàn chân.

+ Lông dài là những sợi lông dài, cứng và có đường kính lớn hơn lông nhẵn. Lông dài nằm ở vùng da đầu (tóc), xung quanh miệng (râu), lông nách, lông mu.

Ngoài ra, thai nhi còn có lông tơ mịn mượt, lông này sẽ rụng đi trước khi sinh khoảng 2 tháng.

Một sợi lông gồm có 3 phần: phần nằm trên thượng bì, phần mọc xuyên qua thượng bì, phần nằm trong chân bì (trung bì).

Phần nằm trong chân bì gọi là rễ lông được bao bọc bởi một vỏ gọi là nang lông. Nang lông gồm có 3 lớp: bao biểu mô ngoài, bao biểu mô trong, và bao xơ.

Mỗi nang lông có 3 phần:

– Miệng nang lông thông ra mặt da.

– Bao nang lông: là phần dài nhất ăn sâu xuống lớp hạ bì của da.

2.4.4 Móng (Nails)

Móng là phần biến dạng của da, ở các đầu ngón tay, ngón chân.

Móng là một tấm sừng dày khoảng từ 0,3- 0,5 – 0,75 mm, nằm gọn trong một rãnh của mặt lưng (mu) đầu ngón.

Móng có 4 bờ: Bờ tự do nằm ở đầu móng, 3 bờ còn lại được nếp da phủ lên gọi là bờ sau và 2 bờ bên.

Bờ sau và nếp gấp vùng gốc móng gọi là nếp gấp trên móng.

Phần móng ở bờ sau có hình vát gọi là rễ móng. Phần còn lại dày đều, có hình khum gọi là thân móng.

Thượng bì ở dưới móng tiếp với thượng bì của da ở nếp gấp sau và các nếp gấp bên. Phần gốc móng có hình bán nguyệt gọi là liềm móng. Thượng bì ở dưới rễ móng gọi là mầm móng, đó là lớp sinh sản, có lớp Malpighi khá dày.

Những tế bào ở mầm móng phát triển từ đáy mầm ra thân móng và dẹt đi biến thành lá sừng đắp vào mặt dưới của móng. Bản móng mọc liên tục từ gốc móng ra bờ tự do. Mỗi ngày móng mọc ra dài khoảng 0,1mm. Móng chân mọc chậm hơn móng tay. Càng nhiều tuổi móng mọc càng chậm. Thời gian thay thế hoàn toàn 1 móng tay khoảng 3 tháng, móng chân khoảng 6 tháng.

2.4.5 Niêm mạc

Niêm mạc khác da ở chỗ không nhiễm Keratin. Các lớp nông ở niêm mạc gồm tế bào có nhiều lỗ hổng dẹt và bong đi chứ không nhiễm Keratin, còn các lớp tế bào gai, lớp hạt giống như da nhưng dày hơn.

Doctor SAMAN

Ngô Quang Trúc

Tiến sỹ bác sỹ cao cấp chuyên ngành Tâm Thần Kinh

Bệnh học Da liễu, bộ môn Da liễu, trường đại học y Hà Nội. Nhà xuất bản y học, Hà Nội , 2017.

Burns DA, Breathnach SM, Cox N, Criffiths CE. Eds.2004. Rook’s Textbook of Dermatology.7 th ed. Malden, Mass, Blackwell Science..

Poblet E, Jime’nez F, Ortega F, Aug 2004. The contribution of the arrector pili muscle and sebaceous glands to the follicular unit structure. J Am Acad Dermatol; 51(2) : 217-22.

Prost – Squarcioni C. (Histology of skin and hair follicle). Med Sci (Paris). Feb 2006; 22(2) : 131-7.

Taylo GI, Pan WR Sep 1998, Angiosomes of the leg : Anatomic study and clinical implications. Plast Reconstr Surg. 102(3) : 599-616; discussion 617 – 8.

Ashbaugh DR. 1999. Quantitative- Qualitative Friction Ridge Analysis : An Introduction to Basis and Advanced Ridgeology : Boca Raton, Fla : CRC Press; 8.

Goldman MP. Shiffman MA, Mirrafati SJ, Lam SM, et al, eds, 2008, Simplified Facial Rejuvennation, New York, NY : Springer; 47-50.

Rabe JH, Mamelak AJ, McFlgunn PJ, Morison WL, Sauder DN. Jul 2006.Photoaging : mechanisms and repair . J Am Acad Dermatol.55(I) : 1- 19.

Baumann L. Jan 2007. Skin ageing and its treament. J Pathol.211(2) : 241 – 51.