Cấu Tạo Tim Heo / Top 16 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Nhatngukohi.edu.vn

Trình Bày Cấu Tạo Của Tim

Cấu tạo tim: tĩnh mạch chủ trên, tâm nhĩ phải, động mạch vành phải, tâm thất phải, tĩnh mạch chủ dưới, cung động mạch chủ, động mạch phổi, tĩnh mạch phổi, tâm nhĩ trái, động mạch vành trái và tâm thất trái. Hay ta nói ngắn gọn hơn: Tim được cấu tạo bởi cơ tim và mô liên kết tạo thành các ngăn tim (tâm nhĩ phải, tâm nhĩ trái, tâm thất phải và tâm thất trái) và các van tim (van nhĩ- thất và van động mạch).

– Nhờ có tim mà quá trình vận chuyển máu dễ dàng hơn, lượng máu độc trong cơ thể đc lưu giữ, lượng máu tươi đi nuôi cơ thể.

Cấu tạo hệ mạch: gồm có 3 mạch; ĐỘNG MẠCH, TĨNH MẠCH VÀ MAO MẠCH.

– ĐỘNG MẠCH: gồm biểu bì, cơ trơn và mô liên kết.

– TĨNH MẠCH: gồm biểu bì, cơ trơn, mô liên kết (cũng giống như động mạch) nhưng có thêm van.

– MAO MẠCH chỉ có duy nhất một lớp biểu bì do nó có rất nhiều sợi.

Câu 2:

Tim đập suốt đời không cần nghỉ bởi chu kì làm việc của tim gồm 3 pha (0,8s). Pha thất co(0,3s), pha nhĩ co(0,1s), và pha dãn chung (0,4s), khi pha này hoạt động thì pha kia không hoạt động. Như vậy pha thất co hoạt động 0,3s và nghỉ 0,5s; pha nhĩ co hoạt động 0,1s và nghỉ 0,7s; pha dãn chung hoạt động 0,4s và nghỉ 0,4s nên tim có thể hoạt động không mệt mỏi

Câu 3:

Quả tim có chức năng như một cái bơm , bơm máu đi nuôi cơ thể , động mạch là khi quả tim bóp tống máu đi nuôi cơ thể , nên động mạch là mạch dẫn máu đi .Tỉnh mạch, là khi máu đã nuôi cơ thể bị ô nhiểm trở thành đen bầm, máu được tỉnh mạch dẫn về phổi trở về phổi để nhờ o xy của sự thở ở phổi để lọc máu thành đỏ lại rồi lại dẫn vào tim nhờ động tác phồng của tim tạo nên sức hút . Động mạch và tỉnh mạch là những mạch chính ,đưa máu đi và về theo nhịp bóp , phồng của tim . Còn hệ thống mạch nhỏ li ti chằng chịt khắp cơ thể phụ thuộc 2 hệ thống đi và về đó thì gọi là mao mạch. Ga rô là miếng vải được thắt bên trên chỗ bị thương để không cho máu thoát ra chỗ bị thương , máu ra nhiều quá , hết máu, người bị thương sẽ tử vong , mặc dù vết thương không gây tử vong , tử vong như thế này là do mất hết máu , thường thường nếu vết thương làm đứt động mạch thì máu tuôn ra thành từng vòi . Thắt ca rô bên trên vết thương để ngăn máu chảy ra , nhưng thỉnh thoảng phải nới ra để cơ thể phần dưới ca rô được nuôi bằng máu , nếu không, phần đó sẽ bị hoại tử vì không có máu . Thắt ga rô có người trông coi , thỉnh thoảng nới lỏng ra một chút rồi cột lại chứ không thắt luôn 100%. Đó là sơ cứu khi người bị thương , điều quan trọng là chở người bị thương gấp đến bệnh viện để cấp cứu kịp thời .

Cấu Tạo Và Chức Năng Của Tim

Ngày đăng: 09/09/2023

Trái tim một người trưởng thành có chiều dài trung bình từ 10-15cm (thông thường là từ 12-13cm). Trái tim của phụ nữ có trọng lượng trung bình từ 250-300g, còn trái tim nam giới nặng trung bình từ 300-350g. Hàng ngày, tim bơm khoảng 7.600 lít máu (trung bình từ 5-30 lít/phút) vào các mạch máu có độ dài tổng cộng gần 100.000km.

1. Cấu Tạo và Chức Năng Của Tim

Tim là bộ phận quan trọng trong hệ tuần hoàn của con người. Tim được cấu tạo từ một loại cơ đặc biệt là cơ tim. Tim là một khối cơ rỗng, được chia thành 4 buồng: 2 tâm nhĩ và 2 tâm thất. Nhĩ phải và nhĩ trái, thành mỏng, nhận máu tĩnh mạch, đưa xuống thất; thất phải và thất trái, thành dày, bơm máu vào động mạch với áp lực cao. Hai tâm nhĩ ngăn cách nhau bởi vách liên nhĩ, hai tâm thất ngăn cách nhau bởi vách lên thất.

Độ dày của các thành tim ở các buồng thay đổi tùy theo chức năng của nó. Thành cơ tim thất trái dày gấp hai đến bốn lần thành thất phải, do nó phải bơm máu với áp lực cao hơn để thắng sức cản lớn của tuần hoàn hệ thống. Năng lượng cần thiết cho sự chuyển động của máu xuất phát từ thành cơ tim.

2. Hệ thống van tim

Hướng chảy của máu được xác định bởi sự hiện diện của các van tim. Các van tim là những lá mỏng, mềm dẻo, là tổ chức liên kết được bao quanh bởi nội tâm mạc.

Van nhĩ – thất: ngăn giữa nhĩ và thất, bên trái có van hai lá, bên phải có van ba lá. Nó giúp máu chảy một chiều từ nhĩ xuống thất. Các cột cơ gắn với van nhĩ-thất bởi các dây chằng. Cột cơ co rút khi tâm thất co, nó không giúp cho sự đóng của van, mà nó kéo chân van về phía tâm thất, ngăn sự lồi của các lá van về tâm nhĩ trong kỳ thất co rút. Nếu dây chằng bị đứt hoặc nếu một trong các cột cơ bị tổn thương, máu có thể trào ngược về tâm nhĩ khi thất co, đôi khi gây nên rối loạn chức năng tim trầm trọng.

Hình: Cơ tim và Hệ thống van hai lá.

Van bán nguyệt: giữa tâm thất trái và động mạch chủ có van động mạch chủ, van động mạch phổi ở giữa tâm thất phải và động mạch phổi. Nó giúp máu chảy một chiều từ tâm thất ra động mạch . Tất cả các van đóng mở một cách thụ động, sự đóng mở tùy thuộc vào sự chênh lệch áp suất qua van. Ví dụ như khi áp lực tâm nhĩ vượt quá áp lực tâm thất thì van nhĩ – thất mở ra, và máu từ nhĩ xuống thất; ngược lại khi áp lực tâm thất lớn hơn áp lực tâm nhĩ, van đóng lại, ngăn máu chảy ngược từ thất về nhĩ.

3. Sợi cơ tim

Hình: Sợi cơ tim.

Tim được cấu thành bởi 3 loại cơ tim: cơ nhĩ, cơ thất và những sợi cơ có tính kích thích, dẫn truyền đặc biệt. Cơ nhĩ, cơ thất có hoạt động co rút giống cơ vân, loại còn lại co rút yếu hơn nhưng chúng có tính nhịp điệu và dẫn truyền nhanh các xung động trong tim.

Các tế bào cơ tim có tính chất trung gian giữa tế bào cơ vân và tế bào cơ trơn. Đó là những tế bào nhỏ, có vân, chia nhánh và chỉ một nhân. Khác với cơ vân, các tế bào cơ tim có các cầu nối, kết với nhau thành một khối vững chắc, có những đoạn màng tế bào hòa với nhau. Các sợi cơ tim mang tính hợp bào, hoạt động như một đơn vị duy nhất khi đáp ứng với kích thích, lan truyền điện thế giữa các sợi cơ tim nhanh chóng qua các cầu nối. Sự lan truyền điện thể từ nhĩ xuống thất được dẫn qua một đường dẫn truyền đặc biệt gọi là bộ nối nhĩ – thất.

Các sợi cơ tim chứa nhiều ty lạp thể và mạch máu, phù hợp với đặc tính hoạt động ái khí của tim. Thành phần chủ yếu của tế bào cơ tim là các tơ cơ (myofibrille), chứa các sợi dày (myosin) và sợi mỏng (actin, tropomyosin, troponin), sự co rút của chúng gây ra co rút toàn bộ tế bào cơ tim. Xung quanh các sợi cơ có mạng nội sinh cơ chất (reticulum sarcoplasmique) là nơi dự trữ canxi.

Như vậy chức năng chính của cơ tim là tự co rút và chúng cũng phản ứng theo cùng một cách thức trong trường hợp bệnh lý: chúng cùng phì đại trong sự quá tải hoặc chúng hoại tử thành những mô xơ trong trường hợp khác. Tim có nhiệm vụ bơm đều đặn để đẩy máu theo các động mạch và đem dưỡng khí và các chất dinh dưỡng đến toàn bộ cơ thể, hút máu từ tĩnh mạch về tim sau đó đẩy máu đến phổi để trao đổi khí CO 2 lấy khí O 2.

4. Những Điều Bí Mật Của Tim

Sơ lược điện tâm đồ

Khi tim hoạt động xuất hiện dòng điện hoạt động của các sợi cơ tim. Những dòng điện này có thể ghi lại từ những điện cực đặt trên da. Như vậy điện tâm đồ thể hiện sự hoạt động điện của tim và có thể cho biết tình trạng của tim, tần số, bản chất và sự phát sinh nhịp tim, sự lan tỏa và hiệu quả của các hưng phấn cũng như cho biết các rối loạn có thể có.

Điều hòa lưu lượng tim:

Một người lúc nghỉ tim bơm đi khoảng 4-6 lít/phút, khi nhu cầu oxy của cơ thể tăng hoặc giảm, lưu lượng tim thay đổi cho phù hợp. Những yếu tố làm tăng thể tích tống máu tâm thu hay tần số tim đều gây tăng lưu lượng tim. Chẳng hạn, trong tập luyện nhẹ, thể tích tống máu có thể tăng 100ml/nhịp đập và tần số tim là 100lần/phút, như vậy lưu lượng tim sẽ là 10lít/ph. Trong tập luyện cường độ cao (nhưng chưa phải là tối đa), tần số tim có thể đến 150lần/ph và thể tích tống máu là 130ml/nhịp đập, lúc này lưu lượng tim lên đến 19,5lít/ph.

Tần số tim:

Sự thay đổi nhịp tim quan trọng trong điều hòa cấp thời lưu lượng tim và áp lực máu. Yếu tố đóng vai trò điều hòa tần số tim là hệ thần kinh thực vật và hormon tủy thượng thận.

Hệ thần kinh thực vật:

Trung tâm tim mạch ở hành não nhận các luồng xung động truyền về từ các thụ cảm cảm giác ở ngoại vi và từ trung tâm cao hơn như hệ limbic, vỏ não. Từ đây, xung động đáp ứng truyền ra theo các dây giao cảm và phó giao cảm của hệ thần kinh thực vật chi phối tim.

Các chất thụ cảm gồm:

Chất thụ cảm bản thể (proprioceptor) kiểm soát các cử động, ví dụ khi một vận động viên chuẩn bị chạy, tư thế của chi, cơ sẽ tác động vào các proprioceptor, tăng xung động truyền về trung tâm tim mạch, làm tăng nhịp tim. Chất thụ cảm hóa học (chemoreceptor) tiếp nhận những thay đổi hóa học trong máu. Chất thụ cảm áp suất (baroreceptor) tiếp nhận những thay đổi về áp lực ở các động mạch và tĩnh mạch lớn, vị trí của quan trọng của nó thường ở quai động mạch chủ và xoang động mạch cảnh. Các phản xạ này quan trọng trong điều hòa áp lực máu cũng như tần số tim.

Những yếu tố khác: Tuổi, giới, tình trạng thể lực và thân nhiệt cũng ảnh hưởng đến nhịp tim. Trẻ càng nhỏ, nhịp tim càng nhanh và chậm dần lại cho đến bằng tần số tim bình thường ở người trưởng thành. Ở người tập luyện, có nhịp tim chậm dưới 60lần/ph, điều này thuận lợi trong việc cung cấp đủ năng lượng khi tập luyện kéo dài. Sự tăng thân nhiệt như sốt, vận cơ làm tăng nhịp tim. Ngược lại, sự giảm thân nhiệt làm giảm nhịp tim và sức co rút. Hiện nay, để phẫu thuật tim, người ta sử dụng phương pháp hạ nhiệt, bằng cách này thân nhiệt giảm, giảm tốc độ chuyển hóa và giảm nhu cầu oxy của mô, thuận lợi cho cuộc mổ. – Trái tim con người đôi khi cũng nghỉ ngơi, điều này diễn ra trong thời điểm được y học gọi là kỳ “tâm trương”(diastole), khi toàn bộ thân thể được thư giãn.

– Không thể tái tạo tế bào tim, vì thế ta cần nhận thức rõ tầm quan trọng của trái tim mình. – Khi đo huyết áp, người ta tính các chỉ số áp suất cao nhất và thấp nhất của mạch máu. – Mất máu nhiều có thể dẫn tới tử vong vì không có máu cung cấp cho các cơ quan quan trọng trong cơ thể con người như não (nhận từ 15-20% tổng lượng máu), thận (20%), và tim (5% lượng máu đi qua). – Để tim hoạt động phù hợp, cần tránh những công việc nặng quá sức, đột ngột. Sử dụng thực phẩm bổ sung dinh dưỡng và vitamin, khoáng chất tổng hợp tốt cho tim như: protein thực vật, magie và canxi, omega-3, các vitamin và khoáng chất thiết yếu khác.

Cấu Tạo Tim Và Những Điều Thú Vị

Cấu tạo tim và những điều thú vị về một bộ phận không ngừng nghỉ

Cấu tạo ngoài tim

Tim là bộ phận quan trọng trong hệ tuần hoàn của động vật. Bề ngoài tim trông giống như quả đào, kích thuốc gần bằng nắm tay. Quả tim là một khối cơ, do rất nhiều sợi cơ hợp thành, mỗi sợi cơ là một tế bào, đầu dưới hơi nhọn và hướng về bên trái, gọi là mỏm tim hay đỉnh tim. Trên bề mặt quả tim có nhiều mạch máu chạy ngoằn ngoèo, là những động mạch vành và tĩnh mạch vành. Những động mạch vành này tuy nhỏ bé nhưng có nhiệm vụ rất quan trọng là đem ôxy đến cho cơ tim. Nếu chúng bị tắc thì một vùng cơ tim sẽ bị hoại tử, gây ra bệnh nhồi máu cơ tim.

Quả tim nhìn từ phía trước 1 động mạch chủ; 2 động mạch phổi; 3 tĩnh mạch chủ trên; 4 tĩnh mạch phổi; 5 tiểu nhĩ phải; 6 tiểu nhĩ trái; 7 rãnh liên thất trước; 8 tâm thất phải; 9 tâm thất trái; 10 mỏm tim; 11 tâm nhĩ phải; 12 các động mạch lên tay và đầu

Mặt sau quả tim cũng có những mạch vành như vậy:

Quan sát thật kỹ bề ngoài quả tim, có thể thấy có hai đưòng lõm như hai rãnh, một ở mặt trước và một ở mặt sau, ở đó tập trung nhiều mạch vành hơn. Đó là các rãnh liên thất trước và sau, ở giữa hai tâm thất trái và phải, ở phía trên khối cơ vừa tả là một vùng gọi là đáy tim hay nền tim. Hai bên cạnh đáy tim có hai bộ phận nhô ra như hai cái tai, đó là hai tiểu nhĩ.

Quả tim nhìn từ phía sau

1 động mạch chủ; 2 động mạch phổi; 3 tĩnh mạch chủ trên; 4 tâm nhĩ tái; 5 tĩnh mạch phổi phải; 6 tâm nhĩ phải; 7 tĩnh mạch chù dưới; 8 tâm thất trái; 9 tâm thất phải; 10 rãnh liên thất sau; 11 mỏm tim; 12 tâm thất trái; 13 tĩnh mạch phổi trái; 14 các động mạch lên tay và đầu

Phần trên cùng của quả tim là gốc các mạch máu lớn, có thể gọi là cuống tim. Hai động mạch lớn nằm cạnh nhau, động mạch chủ đi vòng ra sau, đưa máu đỏ (máu chứa nhiều ôxy) đi nuôi cơ thể, và động mạch phổi nằm phía trước đưa máu đen (máu nghèo ôxy) lên phổi để lấy ôxy về. Còn các tĩnh mạch lớn gồm hai tĩnh mạch chủ trên và dưới đưa máu đen về tim, và bốn tĩnh mạnh phổi, hai bên phải và hai bên trái đưa máu đỏ từ phổi về tim. Vì các mạch máu lớn giữ cho đáy tim ở vị trí cố định, và mỏm tim thì di động tương đối tự do, nên được gọi là cuống tim.

Cấu tạo trong của tim

Cắt ngang qụả tim theo đường AB

Quan sát ở diện cắt ngang, thì thấy quả tim không phải là một khối cơ đặc, mà lại rỗng, có hai buồng ở trong gọi là tâm thất trái và tâm thất phải. Hai tâm thất đều chứa đầy máu, nhưng có khác nhau đôi chút.

Tâm thất phải nằm ở bên phải, nhưng chiếm phần lớn ở mặt trước quả tim, còn tâm thất trái chiếm mặt sau tim nhiều hơn. Máu ở hai tâm thất cũng khác nhau. Tâm thất phải chứa đầy máu đen, nghèo ôxy vì mới đi nuôi cơ thể trở về và sắp được đưa lên phổi để nhận ôxy mới, còn tâm thất trái lại chứa đầy máu đỏ, vì mới được ôxy hoá ở phổi xong, chuẩn bị được bơm đi nuôi toàn bộ cơ thể. Chính vì nhiệm vụ khác nhau mà hai tâm thất cũng có bề dày khác nhau, tâm thất trái luôn phải bơm máu đến toàn bộ cơ thể, nên có thành dày, ở người lớn trung bình lúc tim nghỉ là 6 – 10mm, lúc tim co bóp lên tới 8 – 15mm; còn tâm thất phải chỉ bơm máu đến hai phổi ngay bên cạnh nên thành mỏng hơn nhiều, chỉ độ 3 – 5mm.

Vách ngăn giữa hai tâm thất cũng dày bằng thành tâm thất trái.

Quan sát quả tim ở diện cắt dọc, từ mỏm tim đến đáy, thì ngoài tâm thất phải và trái, tim còn hai buồng nữa có thành mỏng hơn nhiều, chỉ độ 2 – 3mm. Một là tâm nhĩ phải, nhận máu đen từ các nơi xa về, qua hai tĩnh mạch chủ trên và dưới, để đẩy xuông tâm thất phải. Hai là tâm nhĩ trái, nhận máu đỏ mới được ôxy hoá ở phổi, qua bốn tĩnh mạch phổi về tim.

Máu đỏ này sẽ đi qua van hai lá xuống tâm thất trái để được bơm đi khắp cơ thể.

Mặt trong tâm thất không nhẵn, mà rất gồ ghề, vì các bó cơ, cột cơ lồi lên, còn các tâm nhĩ ít cơ, nên mặt trong nhẵn hơn. Tuy nhiên, dù mặt trong của cả bốn buồng tim nhẵn hay gồ ghề thì cũng đều được phủ bằng một lớp tế bào rất mỏng, gọi là màng trong tim (hay nội tâm mạc).

Ở hai lỗ thông giữa tâm nhĩ ở trên với tâm thất cùng bên ở dưới, màng trong tim gấp lại thành những lá van gọi là -van nhĩ thất. Nhờ có những van này mà máu chỉ đi được một chiều, từ tâm nhĩ xuống tâm thất. Van bên phải giữa tâm nhĩ và tâm thất phải có ba lá (gọi là van ba lá), còn van bên trái chỉ có hai lá (gọi là van hai lá). Van hai lá rất hay bị bệnh, có khi hở van, nhưng phổ biến là hẹp van.

ở giữa hai động mạch lớn, nội tâm mạc cũng được xếp thành van, gọi là van động mạch, còn có tên là van tổ chim, vì khi cắt dọc động mạch ra thì trông giống như 3 tổ chim xếp cạnh nhau. Cũng như các van nhĩ thất, các van động mạch chỉ cho máu đi theo một chiều nhất định. Van động mạch chủ, còn gọi là van chủ, chỉ cho máu đi từ tâm thất trái vào động mạch chủ, còn van động mạch phổi cũng chỉ cho máu từ tâm thất phải vào động mạch phổi.

Khi tâm thất dãn ra, van giữa động mạch chủ và tâm thất đóng lại, ngăn máu ở động mạch chủ, động mạch phổi chảy ngược về tâm thất. Lúc đó, tâm nhĩ co lại, van hai lá, van ba lá mở ra, như vậy máu trong tâm nhĩ sẽ dễ dàng lưu thông vào tâm thất.

Khi tâm thất co lại, máu trong tâm thất trái, phải đẩy van động mạch chủ và van động mạch phổi mở ra và chảy vào động mạch chủ và động mạch phổi. Lúc đó van hai lá và van ba lá đóng lại.

Vị trí của 4 van tim khi đã cắt bỏ tâm nhĩ, nhìn từ trên xuống 1 mép sau van hai lá; 2 tâm thất trái; 3 vòng van hai lá; 4 van hai lá; 5 mép trước van hai lá; 6 van chủ; 7 van phổi; 8 tâm thất phải; 9 vòng van 3 lá; 10 van ba lá

Van tim tự động đóng mở đảm bảo máu lưu thông đúng, không bị chảy ngược lại.

Các van ở bên trái của quả tim như van hai lá, van động mạch chủ thường hay bị bệnh hơn những van ở bên phải, là van ba lá và van phổi.

Cơ chế hoạt động

Đặt tay lên ngực ta thấy tim đập đều đặn, mỗi phút khoảng 60 – 90 nhịp ở người lớn, tim trẻ em đập nhanh hơn nhiều, càng ít tuổi đập càng nhanh.

Tim hoạt động có tính chu kỳ, cứ bóp vào (gọi là tâm thu), rồi lại dãn ra (tâm trương), đều đặn trong suốt cuộc đời, từ ngày thứ 32 sau khi thụ thai, cho đến khi trút hơi thở cuối cùng.

Ở một người lớn khoẻ mạnh, tim đập 75 nhịp trong một phút, như vậy mỗi chu chuyển dài (60 giầy: 75) 0,8 giây. Thời gian ngắn ngủi 0,8 giây đó, tim hoạt động qua 3 pha.

Pha là pha tâm nhĩ thu, gọi tắt là nhĩ thu. Bắt đầu chu chuyển, hai tâm nhĩ cùng co bóp trong 0,1 giây. Tuy thành tâm nhĩ rất mỏng, ít sợi cơ, nhưng cũng gây được một áp lực khoảng 8 – l0mmHg, đủ để đẩy máu từ hai tâm nhĩ xuống hai tâm thất, qua hai van nhĩ thất trái và nhĩ thất phải đang mở.

Máu đỏ từ tâm nhĩ trái, qua van hai lá xuống tâm thất trái, và máu đen từ tâm nhĩ phải qua van ba lá xuống tâm thất phải. Thật ra quá nửa máu trong tâm nhĩ đã chảy dần xuống tâm thất trong pha III của chu chuyển trước rồi, chỉ còn non một nửa được đẩy nốt trong pha I này thôi.

Khi hai tâm nhĩ co bóp, máu không chảy ngược lại các tĩnh mạch chủ và tĩnh mạch phổi được, vì các van tĩnh mạch ngăn không cho máu đi ngược chiều.

Sau 0,1 giây đó, hai tâm nhĩ lại cùng dãn ra, nghỉ trong suốt thời gian còn lại 0,7 giây của chu chuyển. Như vậy hai tâm nhĩ làm việc chỉ có 1/8 thời gian, còn nghỉ 7/8 thời gian trong một chu chuyển.

Pha II là pha của tâm thất thu, gọi tắt là thất thu. Hai tâm thất cũng cùng co bóp trong 0,3 giây. Vì thành hai tâm thất rất dày, chứa nhiều sợi cơ, nên chúng co bóp rất mạnh, gây áp lực rất lớn. Tâm thất trái dày hơn, nên huyết áp trong tâm thất trái lên tối 110mmHg (xem hình, dòng f), đóng mạch van hai lá lại, và mở van chủ ra đẩy máu đỏ vào động mạch chủ, làm cho huyết áp đo ở động mạch cánh tay cũng vọt lên tối 110mmHg. Vì vậy con số này gọi là huyết áp tâm thu. ở người bình thường, mỗi nhịp co bóp tâm thất trái có thể đẩy 60 – 70ml máu đỏ vào động mạch chủ, tức 60 – 80% lượng máu nó chứa lúc nghỉ ở pha III, chỉ giữ lại khoảng 40 – 50ml.

a) Thời gian, mỗi vạch là 0.1 giây

b) Pha I, II, III của chu chuyển tim

c) Điện tim đồ

d) Tiếng tim thứ 1,2 khi nghe tim (bùm tắc)

e )Áp lực trong động mạch chủ lúc van mở C; van đóng

f) Áp lực trong tâm thất trái

g) Mạch động mạch

(C: mạch cổ; 0: mạch quay)

Sơ đồ 3 pha của chu chuyển tim

Tâm thất phải yếu hơn, nhưng khi co bóp cũng làm huyết áp trong động mạch phổi lên tới 20 -25mmHg, đủ sức đóng van ba lá và mở van phổi. Do đó máu đen được đẩy vào động mạch phổi đi lên hai lá phổi để nhận ôxy. Lượng máu tâm thất phải đẩy vào động mạch phổi cũng; bằng lượng máu tâm thất trái đẩy vào động mạch chủ.

Trong pha này, hai tâm nhĩ vẫn dãn nghỉ, và tiếp tục nhận máu từ các tĩnh mạch dồn về. Hai van nhĩ thất đều đóng kín trong suốt pha II, bắt buộc máu ở hai tâm thất phải đi vào các động mạch chủ và động mạch phổi.

Pha III là tâm trương. Hai tâm thất cùng dãn đồng thời (thất trương) trong 0,4 giây. Ấp lực trong các buồng này giảm đột ngột, xuống tới 0, trong khi áp lực trong các động mạch lớn vẫn còn cao (70mmHg ở động mạch chủ (gọi là huyết áp tâm trương), và 10munHg ở động mạch phổi). Do đó, hai van động mạch đóng lại, máu ở các động mạch dồn ra xa vào các nhánh nhỏ hơn. Hai tâm nhĩ vẫn dãn nghỉ, hai van nhĩ thất bắt đầu mỏ, và máu bắt đầu chảy từ tâm nhĩ vào tâm thất, mặc dù hai tâm nhĩ không co bóp, trong 0,4 giây đó cả 4 buồng tim đều dãn nghỉ hoàn toàn.

Như vậy trong một chu chuyển tim 0,8 giây, hai tâm thất chỉ co bóp trong 0,3 giây, hai tâm nhĩ là 0,1 giây. Sau 0,4 giây nghỉ của toàn bộ quả tim, chu chuyển sau tiếp tục, lại bắt đầu từ pha I.

Phai I: Hai tâm nhĩ bóp, hai van nhĩ thất mở, đẩy thêm máu xuống 2 tâm thất.

Pha II: Hai tâm thất bóp, hai van nhĩ thất đóng, gây tiếng “bùm”, máu bị tống vào các động mạch chủ và động mạch phổi.

Pha III: Hai tâm nhĩ nghỉ, máu chảy từ tâm nhĩ xuống tâm thất. Van tổ chim đóng lại, gây tiếng “tắc”, máu chảy xuôi trong các động mạch.

Nhìn chung, quả tim đóng vai trò của một cái bơm, vừa đẩy vừa hút. ở pha I thì tim chỉ đẩy máu từ hai tâm nhĩ xuống hai tâm thất, nên máu chỉ di chuyển trong nội bộ quả tim. Nhưng sang pha II, hai tâm thất, mỗi nhịp co bóp tim lại đẩy máu vào các động mạch lớn, nhất là động mạch chủ, để đi nuôi cơ thể – đó là pha “bơm đẩy”. Đến pha III, toàn bộ quả tim dãn nghỉ, áp lực trong các tâm nhĩ xuống thấp, nhờ đó tim hút được máu từ các tĩnh mạch về đó là pha “bơm hút”. Hai chức năng đẩy và hút đều quan trọng, vì nếu chỉ đẩy máu đi nuôi .cơ thể mà không hút được máu đã dùng về tim, thì hệ tuần hoàn sẽ bị ứ đọng, và tim sẽ không còn chỗ nào để đẩy máu đi nữa!

Tính ra lúc nghỉ ngơi, mỗi phút quả tim ở người lớn đập 75 nhịp, tim trẻ con đập nhanh hơn nhiều.

Đối với động vật nói chung, kích thước cơ thể càng lớn thì tim đập càng chậm; tim voi đập 25 nhịp/phút, còn tim chuột đập tới 500: Mỗi nhịp đập ở người lớn, tâm thất trái bơm đẩy 70ml máu độ, và mỗi phút lượng máu đỏ được bơm vào động mạch chủ là 70ml x 75 = 5250ml, tức 5,2 lít. Con số đó gọi là cung lượng tim. Tất nhiên, cùng một lượng máu bằng thế được tâm thất phải bơm vào động mạch phổi.

Vì tim hoạt động nhiều như vậy, nên lượng ôxy cơ tim tiêu thụ cũng rất lớn. Mặc dù chỉ cân nặng có 250g, tức bốn phần nghìn trọng lượng cơ thể, cơ tim được nhận 5% máu, và được sử dụng 10 – 12% ôxy của toàn thân. Nói cách khác, 1 gam cơ tim tiêu thụ gấp 25 lần so với 1 gam các phần khác của cơ thể, chẳng hạn: trong 1 phút 100g gan chỉ tiêu thụ có 2ml ôxy; 100g não tiêu thụ 3,3ml ôxy; 100g thận là 6ml ôxy, còn 100g tim là 9,7ml ôxy.

Điện tâm đồ

Trong suốt một đời người, không lúc nào tim ngừng đập. Trước mỗi lần tim đập đều có điện kích động, kiểu điện kích động này có thể truyền dẫn vào bề mặt da của cơ thể. Điện tâm đồ thông qua 1 máy đặc biệt gọi là máy điện tâm đồ ghi lại những thay đổi của dòng điện trong tim.

Hình sóng uốn lượn trong điện tâm đồ thay đổi có quy luật, các sóng này lần lượt gọi là sóng p, QRS và T. Sóng p phản ánh sự co bóp của tâm nhĩ, sóng QRS phản ánh sự co bóp xung động của tâm thất, sóng T phản ánh hoạt động của tâm thất lúc nghỉ ngơi. Dựa vào sự khác thường của sóng có thể phán đoán các loại bệnh về tim mach.

Nghe tim

Trong chu kỳ tâm động, cơ tim co lại, van tim đóng, tốc độ tăng nhanh và giảm nhanh của dòng máu gây ra chấn động cơ học đối với việc tăng áp và giảm áp của thành huyết quản, có thể thông qua tổ chức xung quanh truyền đến thành ngực. Nếu để ống

nghe đặt trước ngực thì sẽ nghe thấy âm thanh ân thanh này gọi là “tâm âm” (tiếng của tim).

Tâm âm sinh ra trong chu kỳ tâm động, âm điệu và thời gian kéo dài cũng có quy luật. Hoạt động dị thưòng của tim sẽ sinh ra các tạp âm và các âm thanh dị thường khác. Nghe tâm âm có ý nghĩa nhất định trong việc chẩn đoán bệnh về tim mạch.

Nêu Đặc Điểm Cấu Tạo Của Tim Phù Hợp Với Chức Năng Của Tim Đảm Nhận

* Tim là một túi cơ rỗng có vách ngăn chia thành hai nửa riêng biệt là nửa phải và nửa trái. Mỗi nửa tim có hai ngăn: một tâm nhĩ ở trên và một tâm thất ở dưới. Thành tim gồm ba lớp. Ngoài cùng là màng liên kết, ở giữa là lớp cơ dày, trong cùng là lớp nội mô gồm các tế bào dẹt.

+ Thành tâm nhĩ mỏng hơn nhiều so với thành tâm thất, vì nhiệm vụ chủ yếu của nó là thu nhận máu và co bóp để đẩy máu xuống tâm thất. Còn tâm thất có nhiệm vụ tống máu vào phổi đi nuôi cơ thể.

+ Thành của hai tâm thất cũng không hoàn toàn giống nhau. Thành tâm thất trái dày hơn thành của tâm thất phải vì áp lực cần thiết để tống máu chảy trong vòng tuần hoàn nhỏ (khoảng 30 mmHg) nhỏ hơn rất nhiều so với áp lực tống máu vào vòng tuần hoàn lớn (khoảng 12 mmHg)

Hệ thống van tim cấu tạo cũng rất phù hợp với chức năng tạo áp lực cho dòng máu và giúp máu di chuyển một chiều

+ Giữa tâm nhĩ và tâm thất có van nhĩ thất đảm bảo cho máu chỉ chảy một chiều từ tâm nhĩ xuống tâm thất. Giữa tâm nhĩ phải và tâm thất phải là van ba lá. Giữa tâm nhĩ trái và tâm thất trái là van hai lá. Van hai lá chắc chắn hơn van ba lá, phù hợp với lực co bóp mạnh của tâm thất trái.

+ Ngoài ra, giữa các tâm thất và động mạch chủ, động mạch phổi còn có van thất động (van bán nguyệt hoặc van tổ chim).

+ Chất bao ngoài van tim có bản chất là mucoprotein.

+ Van tim có cấu tạo bởi mô liên kết, không có mạch máu, một đầu gắn cố định vào mấu lồi cơ ở thành trong của tâm thất bằng các dây chằng, một đầu gắn với bờ ngăn tâm nhĩ với tâm thất của tim

* Tim được bao bọc bởi màng tim ( màng bao tim). Trong màng có một ít dịch giúp giảm ma sát khi tim co bóp

* Tim có hệ thống các mạch máu cung cấp oxi và các chất dinh dưỡng đến nuôi các tế bào cơ tim

Cấu Tạo Và Chức Năng Của Tim Người (Phần 1)

1. Chức năng của Tim

Tim là bộ phận quan trọng trong hệ tuần hoàn của động vật, với chức vụ bơm đều đặn để đẩy máu theo các động mạch và đem dưỡng khí và các chất dinh dưỡng đến toàn bộ cơ thể, đồng thời loại bỏ các chất thải trong quá trình trao đổi chất.

Tim hút máu từ tĩnh mạch về Tim sau đó đẩy máu đến phổi để trao đổi khí CO 2 lấy khí O 2. Trái Tim nằm ở khoang giữa trung thất trong ngực.

Trong cơ thể người, động vật có vú và các loài chim, Tim được chia thành bốn phần: tâm nhĩ trái và tâm nhĩ phải ở nửa trên; tâm thất trái và tâm thất phải ở nửa dưới.

Thường tâm nhĩ phải và tâm thất phải được gộp vào gọi là nửa bên phải và phần kia được gọi là nửa bên trái của Tim.

Tim Cá có hai ngăn, một tâm nhĩ và một tâm thất, trong khi Tim các loài bò sát có ba ngăn. Máu chảy qua Tim theo một chiều do van Tim ngăn máu chảy ngược.

Tim được bao bọc trong một túi bảo vệ gọi là màng ngoài Tim có chứa một lượng nhỏ chất bôi trơn. Tim được cấu tạo thành ba lớp: thượng tâm vị, cơ Tim và màng trong của Tim.

Tim được cấu tạo từ một loại cơ đặc biệt là cơ Tim. Trái Tim con người trung bình đập 72 lần mỗi phút, sẽ đập khoảng 2,5 tỷ lần trong thời gian trung bình 66 năm tuổi thọ. Nó nặng khoảng 250-300 gram (9-11 oz) ở nữ giới và 300 đến 350 gram (11-12 oz) ở nam giới.

2. Cấu tạo của Tim

– Tim được cấu tạo từ một loại cơ đặc biệt là cơ Tim.

– Tim là một khối cơ rỗng, được chia thành 4 buồng: 2 tâm nhĩ và 2 tâm thất.

– Nhĩ phải và nhĩ trái, thành mỏng, nhận máu tĩnh mạch, đưa xuống thất

– Thất phải và thất trái, thành dày, bơm máu vào động mạch với áp lực cao.

– Hai tâm nhĩ ngăn cách nhau bởi vách liên nhĩ, hai tâm thất ngăn cách nhau bởi vách liên thất.

– Độ dày của các thành Tim ở các buồng thay đổi tùy theo chức năng của nó. Thành cơ Tim thất trái dày gấp hai đến bốn lần thành thất phải, do nó phải bơm máu với áp lực cao hơn để thắng sức cản lớn của tuần hoàn hệ thống.

Năng lượng cần thiết cho sự chuyển động của máu xuất phát từ thành cơ Tim.

Nguồn: Tổng hợp từ Internet.