Cấu Tạo Giải Phẫu Lá Cây Ngọc Lan / Top 17 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 10/2023 # Top Trend | Nhatngukohi.edu.vn

Cấu Tạo Giải Phẫu Của Thân Cây Một Lá Mầm

Thân cây thực vật 1lá mầm không có cấu tạo thứ cấp (do không có tầng phát sinh trụ) mà cấu tạo sơ cấp tồn tại suốt đời sống của cây. Trong cấu tạo giải phẫu của thân cây thực vật 1 lá mầm, không phân biệt thành phần vỏ và trung trụ do không có mặt của vòng nội bì và trụ bì. Khi quan sát trên lát cắt ngang, người ta phân biệt các phần chính sau đây: c. Lớp nhu mô cơ bản Cấu tạo bởi những tế bào sống hình trứng, màng mỏng bằng cellulose, các tế bào có kích thước lớn dần từ ngoài vào, giữa các tế bào có các khoảng gian bào rất rõ.

Cấu tạo giải phẫu của thân cây một lá mầm Thân cây thực vật 1lá mầm không có cấu tạo thứ cấp (do không có tầng phát sinh trụ) mà cấu tạo sơ cấp tồn tại suốt đời sống của cây. Trong cấu tạo giải phẫu của thân cây thực vật 1 lá mầm, không phân biệt thành phần vỏ và trung trụ do không có mặt của vòng nội bì và trụ bì. Khi quan sát trên lát cắt ngang, người ta phân biệt các phần chính sau đây: c. Lớp nhu mô cơ bản Cấu tạo bởi những tế bào sống hình trứng, màng mỏng bằng cellulose, các tế bào có kích thước lớn dần từ ngoài vào, giữa các tế bào có các khoảng gian bào rất rõ. Hình 3.11. Cấu tạo giải phẫu thân cây thực vật một lá mầm 1. Lớp biểu bì; 2.Lớp cương mô; 3.Vòng cương mô xung quanh bó dẫn; 4. Libe; 5.Gỗ; 6. Nhu mô gỗ (Nguồn: N.X. Kixeleva; N.V Xelukhi,1969) 71 Ở một số loài Tre, Nứa, Lúa… những tế bào nhu mô ở giữa của thân thường tiêu biến đi khi cây trưởng thành làm cho thân thường rỗng ở các lóng, còn mấu vẫn đặc và giữ nguyên cấu trúc ban đầu. d. Các bó dẫn Nằm rải rác trong khối nhu mô cơ bản có rất nhiều bó dẫn, đó là các bó dẫn trồng chất kín hoặc đồng tâm. Các bó dẫn thường sắp xếp theo 2 kiểu chính: – Các bó dẫn xếp thành 2 vòng: những bó dẫn ở vòng ngoài thường nhỏ, những bó dẫn ở vòng trong thường lớn hơn (thân Lúa). – Các bó dẫn xếp tản mạn (trung trụ phân tán): các bó dẫn sắp xếp tản mạn trên khắp lát cắt ngang không theo một thứ tự nào. Những bó dẫn bên ngoài thường nhỏ xếp khít nhau, vòng cương mô bao xung quanh bó dẫn thường rất dày. Càng vào gần trục của thân, các bó dẫn càng lớn, xếp cách xa nhau hơn và vòng cương mô bao xung quanh rất mỏng (thân Ngô, Mía). Trong mỗi bó dẫn libe thường phân hóa hướng tâm, gỗ phân hóa ly tâm, có cấu tạo gồm: hai mạch điểm lớn xếp đối xứng nhau ngay dưới phần libe, một quản bào xoắn, một quản bào vòng và các tế bào nhu mô gỗ – những tế bào nhu mô này ở dưới các quản bào và thường tiêu biến đi tạo nên một khoảng trống. *Sự sinh trưởng thứ cấp của thân cây Một lá mầm: một số cây Một lá mầm sống nhiều năm (họ Cau – Arecaceae.) thân cây có sự sinh trưởng theo chiều dày, do có vòng mô phân sinh thứ cấp. Ở những cây này, mô phân sinh ngọn chỉ tạo thành một phần thân sơ cấp, còn phần lớn thân do mô phân sinh thứ cấp tạo nên, loại mô phân sinh này thường nằm dưới các mầm lá và phân chia tạo nên những dãy tế bào mô mềm ở phía ngoài khiến thân tăng thêm kích thước về chiều ngang. Kiểu sinh trưởng này gọi là sinh trưởng thứ cấp phân tán, vì nó nằm xa ngọn và không phải do hoạt động của một vùng mô phân sinh giới hạn nào tạo nên. Một kiểu sinh trưởng thứ cấp khác thường gặp ở những loài thân cây gỗ một lá mầm khác như: Huyết dụ, Huyết giác (Dracaenaceae)… Thân của chúng hàng năm dày thêm nhờ sự hình thành các bó dẫn mới (bó dẫn thứ cấp) trong thân, các bó này do các tế bào mô mềm nằm ngoài các bó dẫn được hình thành lúc đầu, có khả năng phân chia và họp thành một vòng phát sinh liên tục gọi là vòng dày. Các tế bào của vòng này sẽ phân chia theo vách tiếp tuyến về 2 phía: phía trong cho ra những bó dẫn thứ cấp và mô mềm, còn phía ngoài thì tạo ra mô mềm. Các bó dẫn trong thân cây 1 lá mầm có cấu tạo thứ cấp thường là những bó dẫn đồng tâm với libe bao quanh gỗ, trong đó: libe gồm các ống rây ngắn với nhiều vùng rây đơn, tế bào kèm và mô mềm libe; gỗ gồm các quản bào dài, các tế bào mô mềm gỗ có vách hóa gỗ…

Cấu Tạo Cấp 1 Thân Cây Lớp Ngọc Lan

Trình bày cấu tạo cấp một của thân cây lớp Ngọc lan

Cắt ngang qua thân cây non của một cây thuộc lớp Ngọc lan. vừa mới nảy mầm. Đem soi dư­ới kính hiển vi, ta thấy thân cây đó gồm có ba phần

Cấu tạo bởi một lớp tế bào sống không có diệp lục. vách hóa cutin thành một lớp dày hay mỏng tuỳ theo cây sống Ở khí hậu khô hay ẩm. Lớp cutin này không thấm nước và khí cho nên trong biểu bì cần có lỗ khí để thông hơi. Ngoài ra, biểu bì của thân còn có thể mang lông che chở, lông tiết hoặc lông ngứa.

Lớp tế bào trong cùng của vỏ gọi là nội bì. gồm một lớp tế bào sống chứa nhiều hạt tinh bột eo thể nhuộm tím sẫm bởi các thuốc thử iod. Ở một số cây, vách tế bào nội bì có thể mang khung hóa bẩn, gọi là đai Caspari.

Các cây lớp Ngọc lan chỉ có duy nhất một trụ giữa (cấu tạo một trụ).

– Trụ bì: Lớp tế bào ngoài cùng của trụ giữa là trụ bì cấu tạo bởi một hay nhiều tầng tế bào. th­ờng xếp xen kẽ với tế bào nội bì và đôi khi có thể hóa mô cứng để làm nhiệm vụ nâng đỡ: đó là những sợi trụ bì.

– Hệ thông dẫn: Dư­ới trụ bì là các yếu tố dẫn nhựa của thân cây không xếp thành bó gô và bó libe riêng biệt nh­ trong rễ cây mà hợp lại thành những bó libe gỗ gồm có libe hình bầu dục Ở phía ngoài và gỗ hình tam giác có đỉnh quay vào tâm ở phía trong. Đó là những bó chồng. Ở một số cây phía trong gỗ lại có thêm một lớp libe nữa gọi là libe quanh tủy (bó chồng kép). Ví dụ nh­ư cây Mư­ớp (Lu[fa cylindrica Ro em.), Mã tiền (Strychnos nux – vomica L.), Lá ngón (Gelsenium elegans Benth.), Cà độc dư­ợc (Datura mete l L.), v.v. . .

Các bó libe gỗ ở thân cây cấp một của các cây lớp Ngọc lan xếp theo một vòng tròn. Chỉ có trư­ờng hợp đặc biệt Ở một số cây như­ cây Trầu không (họ Hồ tiêu ), các bó libe gỗ mới xếp thành hai vòng tròn. Trong bó gỗ, các mạch gỗ nhỏ đặt ở phía trong, các mạch gỗ to ở phía ngoài (phân hóa ly lâm). ở khe giữa libe là gỗ có một lớp tế bào thuộc mô phân sinh cấp hai gọi là tiền tầng sinh gỗ, có nhiệm vụ làm cho thân cây sau này phát triển theo chiều ngang.

– Ruột và tia ruột: Giữa hai bó libe gỗ. có những dải mô mềm gọi là tia ruột hay tia tủy. Ở phía trong các bó libe gỗ là một khối mô mềm gọi là ruột hay tủy. Vài loài cây có ruột rỗng như­ các cây thuộc họ Cẩn.

Cấu Tạo Giải Phẫu Của Rễ Cây

Cấu tạo giải phẫu của rễ cây 2.1. Cấu tạo chóp rễ và miền sinh trưởng a. Chóp rễ Là phần tận cùng của rễ, có nhiệm vụ bảo vệ cho mô phân sinh ngọn, nên các tế bào ngoài của nó thường có màng hóa nhầy, hóa bần để giảm bớt ma sát khi đâm sâu vào đất. 54 Các tế bào của chóp rễ là những tế bào sống, thuộc mô mềm bên trong có chứa nhiều tinh bột. b. Miền sinh trưởng (mô phân sinh đầu rễ) Mô phân sinh đầu rễ phân hóa cho ra các mô của rễ, mô phân sinh đầu rễ thường gồm có 3 phần: – Tầng sinh bì: hoạt động của tầng này cho ra lớp biểu bì của rễ cây. – Tầng sinh vỏ: hoạt động sinh ra các tế bào của vỏ sơ cấp. – Tầng sinh trụ: hoạt động của tầng này cho ra trụ giữa của rễ cây, chứa mô dẫn và nhu mô ruột. Cả 3 tầng trên cùng xuất phát từ một nhóm tế bào khởi sinh ở đỉnh rễ, nhóm tế bào đó họp thành đỉnh sinh trưởng (hay nón sinh trưởng) của rễ. 2.2. Cấu tạo sơ cấp của rễ cây (cấu tạo miền hấp thu) Khi cắt ngang qua tầng lông hút (miền hấp thu) của rễ cây, người ta phân biệt được các phần chính sau đây: a. Lớp biểu bì Biểu bì của rễ gồm các tế bào dài, có màng mỏng thường xếp sát nhau, màng của tế bào biểu bì có thể hóa cutin hoặc hóa bần (ở các loài có biểu bì tồn tại lâu). Biểu bì của rễ thường gồm 1 lớp tế bào. Ở rễ không khí của nhiều cây họ Lan (Orchidaceae) và rễ biểu sinh của các cây họ Ráy (Araceae) biểu bì của rễ thường có nhiều lớp – gọi là lớp velamen: gồm nhiều tế bào có màng dày hóa bần, đó chính là loại mô hấp thu và dự trữ nước của cây. Các tế bào biểu bì có khả năng hình thành lông rễ, nên miền này còn gọi là miền lông rễ, lông rễ thường có mặt ở phần rễ nằm cách đỉnh một đoạn (thường không có ở miền sinh trưởng và miền trưởng thành của rễ cây). Độ dài của miền lông rễ thường không đổi và có tính đặc trưng loài. b. Vỏ sơ cấp Vỏ sơ cấp của rễ cây cấu tạo gồm nhiều lớp ’74ế bào nhu mô và có cấu tạo tương đối đồng đều. Đối với những rễ cây có sinh trưởng thứ cấp (cây Hạt trần và cây 2 lá mầm) thì vỏ sơ cấp của rễ chỉ cấu tạo bởi những tế bào nhu mô và có thể sớm bị bong đi, đối với rễ cây thực vật 1 lá mầm (rễ cây không có cấu tạo thứ cấp) thì trong vỏ sơ cấp còn có các tế bào cương mô nằm rải rác (rễ Cau, Dừa…). Khi quan sát từ ngoài vào, vỏ sơ cấp của rễ gồm có các phần chính sau đây: – Ngoại bì: nằm ngay dưới lớp biểu bì, có thể gồm 1 hoặc nhiều lớp tế bào. Các tế bào ngoại bì thường là những tế bào đa giác, màng hóa bần, nhưng nằm xen kẽ với các tế bào có màng hóa bần đó vẫn có những tế bào màng mỏng bằng cellulose để cho nước thấm qua (gọi là tế bào cho qua). Sau khi tầng lông hút rụng đi, ngoại bì sẽ hóa 55 – Hệ thống dẫn: các bó gỗ và libe nằm riêng biệt, sắp xếp xen kẽ nhau theo kiểu bó dẫn xuyên tâm. Gỗ sơ cấp của rễ cây phân hóa theo hướng hướng tâm (gỗ trước xuất hiện đầu tiên nằm ngay dưới vỏ trụ, còn gỗ sau lại nằm ở gần giữa). Libe sơ cấp cũng phân hóa theo hướng hướng tâm (libe trước xuất hiện đầu tiên nằm ở phía ngoài, libe sau nằm ở phía trong). – Tủy (Ruột): là phần trong cùng của rễ cây, gồm những tế bào có màng mỏng, hình tròn hoặc đa giác. Ở một số rễ cây (rễ phụ của si) phần tủy thường không có do các mạch gỗ phát triển mạnh chiếm cả phần tủy. bần hoàn toàn và làm nhiệm vụ che chở. Ở thực vật 2 lá mầm, ngoại bì sẽ được thay thế bởi mô bì thứ cấp. – Nhu mô vỏ: gồm nhiều lớp tế bào có màng mỏng bằng cellulose sắp xếp đồng đều thành vòng hoặc dãy xuyên tâm. Ở các rễ cây sống dưới nước, phần mô mềm ở phía trong sắp xếp đồng đều thành vòng đồng tâm, còn ở phía ngoài có các khoảng gian bào lớn, có tác dụng như mô thông khí. Tế bào của nhu mô vỏ thường không chứa diệp lục (trừ rễ không khí của Phong lan) thường có chứa tinh bột, các loại tinh thể và hệ thống bài tiết ở rễ Cau, Dừa… (Arecaceae) nằm xen kẽ trong lớp nhu mô thường có các đám cương mô nằm rải rác. – Nội bì: là lớp trong cùng của vỏ sơ cấp, thường gồm một lớp tế bào hình khối chữ nhật, sắp xếp sít nhau, thường có cấu tạo đặc trưng bởi khung caspari. Ở rễ thực vật 2 lá mầm, khung caspari được hình thành do sự hóa bần của vách xuyên tâm của các tế bào nội bì. Ở rễ thực vật 1 lá mầm, sự hóa bần xảy ra không những ở vách xuyên tâm mà cả ở vách tiếp tuyến phía trong cũng hóa bần, do đó khung caspari thường có dạng hình chữ U. Nằm rải rác trong vòng nội bì vẫn có những tế bào có màng mỏng không hóa bần – gọi là các tế bào hút, các tế bào này thường nằm ở đầu các bó gỗ, có nhiệm vụ dẫn nước đi từ vỏ vào trong trung trụ. c. Trung trụ (trụ giữa) Là phần giữa của rễ cây, gồm các phần chính sau đây: – Trụ bì (vỏ trụ): là lớp ngoài cùng của trung trụ, nằm ngay sát nội bì, gồm các các tế bào nhu mô có màng mỏng, thường có kích thước nhỏ hơn và xếp so le với các tế bào nội bì. Vỏ trụ có thể gồm 1 lớp tế bào (ở thực vật hạt kín) hoặc nhiều lớp (ở thực vật hạt trần). Vỏ trụ có khả năng hóa cứng từng phần hay toàn bộ (ở rễ già các thực vật 1 lá mầm). Vỏ trụ của cây thực vật hạt trần và cây thực vật hạt kín có khả năng phân chia để hình thành rễ bên, tham gia vào việc hình thành tầng phát sinh trụ và tầng phát sinh vỏ.

Hình Thái Giải Phẫu Học Lá Cây

Hình thái giải phẫu học lá cây

Hoạt hình này mô tả các loại lá chính và sự khác biệt giữa lá của cây một lá mầm và cây hai lá mầm.

Sinh học

Từ khoá

lá, tĩnh mạch, loại lá, một lá mầm, dicotyledon, lá đơn, lá kép, tờ rơi, cây ngô, hạt dẻ, lỏng lẻo, mặt trên của lá, mặt dưới của lá, cuống lá, vỏ lá, lá có gân song song, tĩnh mạch chính, tĩnh mạch song song, băng bó mạch máu, lỗ hổng, mô trung mô, biểu bì, xylem, phloem, hoa, trao đổi khí, sessile, quang hợp, thân cây, giấy phép, thực vật, tế bào, nước, cây, mô, sinh học

Cấu Tạo Giải Phẫu Của Rễ

Rễ song tử diệp

Một lát cắt ngang qua một rễ song tử diệp còn non cho thấy lát cắt có dạng tròn, đối xứng qua một trục; miền vỏ dày quan trọng hơn miền trụ trung tâm; đặc tính nầy giúp phân biệt giữa rễ và thân.

* Miền vỏ thường dày và quan trọng ở rễ non nhưng rất tiêu giảm ở rễ già, lúc đó vỏ và căn bì được thay thế bằng lớp chu bì hay lớp bần. Từ ngoài vào trong gồm:

– Nếu lát cắt đi ngang qua vùng lông hút, bên ngoài cùng là tầng lông hút, các tế bào với vách mỏng bằng celuloz, bên ngoài tế bào không có cutin bao phủ; vài tế bào biểu bì mọc dài ra thành lông hút. Nhờ không có lớp cutin bao phủ trên bề mặt lớp căn bì mà nước và các chất khoáng hòa tan thẩm thấu xuyên qua vách tế bào.

– Nếu lát cắt đi ngang qua vùng cao hơn, lông hút rụng, vách tế bào bên dưới tẩm suberin và ta có lớp tồn tích tầng lông hút.

– Ngoại bì hay tầng tẩm suberin thường chỉ gồm một lớp tế bào với vách tế bào tẩm suberin hay mộc tố, kích thước tế bào thường to.

– Bên dưới là miền vỏ (cortex) dày gồm nhiều lớp tế bào nhu mô sơ cấp, các tế bào có kích thước tương đối đồng đều, sắp xếp chừa đạo, bọng hay khuyết tùy theo môi trường mà thực vật sống. Các tế bào nhu mô vỏ thường chứa nhiều tinh bột; nhu mô vỏ của rễ lan mọc phụ sinh trên cây hay rễ ấu sống thủy sinh có thể có màu lục vì có chứa lục lạp.

– Nội bì (endodermis) là một lớp tế bào giới hạn bên trong cùng của miền vỏ, vách tế bào theo đường kính có một khung dày bao vòng tế bào, chính khung này tẩm mộc tố hay suberin. Đó là khung Caspary có tính không thấm và rất quan trọng trong sinh lý của rễ, do làm ngăn cản sự khuếch tán các chất đi trong vách tế bào qua bên kia vòng. Sự hiện diện của khung Caspary là đặc sắc ở rễ nhóm song tử diệp.

* Miền trụ trung tâm (stele) hay trung trụ/trụ/trụ giữa là phần vị trí trung tâm của rễ gồm mô dẫn và phần nhu mô đi kèm với nó, thường nhỏ hơn miền vỏ. Hệ dẫn truyền của rễ thường liên tục, được bao bởi một hoặc vài lớp vỏ trụ. Từ ngoài vào trong gồm:

– Chu luân (pericycle) hay trụ bì thường gồm một lớp tế bào nằm bên dưới nội bì và xếp xen kẽ với nội bì, vách tế bào bằng celuloz mỏng. Các tế bào của lớp nầy có hoạt động phân sinh có nghĩa có thể tạo ra tế bào mới; rễ bên ở thực vật Hột trần và Hột kín được hình thành từ mô nầy, tầng nầy có khi hình thành tầng sinh bần.

– Mô dẫn truyền gồm các bó libe gỗ xếp xen kẽ nhau trên một vòng tròn và nằm ngay dưới lớp chu luân. Bó gỗ có sự chuyên hóa hướng tâm với mạch tiền mộc nhỏ xuất hiện trước nằm ngoài (vì thế gỗ còn được gọi ngoại cổ) sát với chu luân; mạch hậu môc to xuất hiện sau nằm bên trong. Bó libe cũng có sự chuyên hóa giống bó gỗ với libe trước nằm ngoài và libe sau nằm trong.

Trên lát cắt ngang, những chỗ đầu tiên xuất hiện mạch tiền mộc và tiền libe gọi là cực: cực gỗ trước và cực libe trước; thường số lượng các cực đó bằng nhau.

Số bó mạch gỗ thay đổi tùy loài: ở Ficus indica có 8 bó mạch gỗ và 8 bó libe; … tuy nhiên số bó có thể lên đến hàng trăm như ở họ Cau dừa (Palmae), Dứa dại (Pandanaceae). Số lượng bó libe và bó gỗ là đặc sắc của các nhóm cây, nhưng cũng có thể biến thiên trên cùng một cây tùy theo đường kính của rễ.

– Tủy (pith) nhỏ nằm phía trong các bó mạch do nhiều lớp tế bào nhu mô có thể tẩm mộc tố hay bị mạch gỗ mọc lấn mất, tủy được xem như hiện tượng biến đổi dần của mô phân sinh thành mô cơ bản hay tầng trước tầng phát sinh của rễ có dạng một ống tròn liên tục bao lấy một ít mô phân sinh cơ bản ở giữa.

Cấu tạo sơ cấp và sự phân hóa mô dẫn trong rễ cây song tử diệp Ranunculus (lát cắt ngang). A. Lược đồ cắt ngang của rễ, B-D. Trụ giữa và các tế bào quanh với các giai đoạn phát triển khác nhau.

Cơ cấu nội bì – lát cắt ngang qua rễ Convolvulus arvensis

2.1.2. Rễ đơn tử diệp

Cũng có cơ cấu tương tự như rễ STD với hai miền: miền vỏ và miền trụ trung tâm nhưng miền trụ trung tâm dày hơn miền trụ trung tâm ở rễ song tử diệp. Ngoài đặc tính chung của rễ, rễ ĐTD khác với rễ STD ở những đặc điểm sau:

– Bên dưới tầng lông hút hay tồn tích tầng lông hút là vùng gồm nhiều lớp tế bào có vách tẩm suberin và gọi là vùng tẩm suberin.

– Nội bì có khung tẩm suberin hình chữ U hay khung sube hình móng ngựa do vách tế bào tẩm suberin dày lên ở các phía trừ phía ngoài có vách tế bào vẫn còn celuloz.

– Số bó libe gỗ thường nhiều hơn 20 bó nhưng bó gỗ không có hình sao như ở

Lát cắt ngang từ ngoài vào trong của rễ đơn tử diệp, A. Cây dầu cọ Châu Phi (Elaeis guineensis), B. Monstera deliciosa, C. Tủy của Bromus