Cấu Tạo Giải Phẫu Lá Cây 1 Lá Mầm / Top 17 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Nhatngukohi.edu.vn

Cấu Tạo Giải Phẫu Của Thân Cây Một Lá Mầm

Thân cây thực vật 1lá mầm không có cấu tạo thứ cấp (do không có tầng phát sinh trụ) mà cấu tạo sơ cấp tồn tại suốt đời sống của cây. Trong cấu tạo giải phẫu của thân cây thực vật 1 lá mầm, không phân biệt thành phần vỏ và trung trụ do không có mặt của vòng nội bì và trụ bì. Khi quan sát trên lát cắt ngang, người ta phân biệt các phần chính sau đây: c. Lớp nhu mô cơ bản Cấu tạo bởi những tế bào sống hình trứng, màng mỏng bằng cellulose, các tế bào có kích thước lớn dần từ ngoài vào, giữa các tế bào có các khoảng gian bào rất rõ.

Cấu tạo giải phẫu của thân cây một lá mầm Thân cây thực vật 1lá mầm không có cấu tạo thứ cấp (do không có tầng phát sinh trụ) mà cấu tạo sơ cấp tồn tại suốt đời sống của cây. Trong cấu tạo giải phẫu của thân cây thực vật 1 lá mầm, không phân biệt thành phần vỏ và trung trụ do không có mặt của vòng nội bì và trụ bì. Khi quan sát trên lát cắt ngang, người ta phân biệt các phần chính sau đây: c. Lớp nhu mô cơ bản Cấu tạo bởi những tế bào sống hình trứng, màng mỏng bằng cellulose, các tế bào có kích thước lớn dần từ ngoài vào, giữa các tế bào có các khoảng gian bào rất rõ. Hình 3.11. Cấu tạo giải phẫu thân cây thực vật một lá mầm 1. Lớp biểu bì; 2.Lớp cương mô; 3.Vòng cương mô xung quanh bó dẫn; 4. Libe; 5.Gỗ; 6. Nhu mô gỗ (Nguồn: N.X. Kixeleva; N.V Xelukhi,1969) 71 Ở một số loài Tre, Nứa, Lúa… những tế bào nhu mô ở giữa của thân thường tiêu biến đi khi cây trưởng thành làm cho thân thường rỗng ở các lóng, còn mấu vẫn đặc và giữ nguyên cấu trúc ban đầu. d. Các bó dẫn Nằm rải rác trong khối nhu mô cơ bản có rất nhiều bó dẫn, đó là các bó dẫn trồng chất kín hoặc đồng tâm. Các bó dẫn thường sắp xếp theo 2 kiểu chính: – Các bó dẫn xếp thành 2 vòng: những bó dẫn ở vòng ngoài thường nhỏ, những bó dẫn ở vòng trong thường lớn hơn (thân Lúa). – Các bó dẫn xếp tản mạn (trung trụ phân tán): các bó dẫn sắp xếp tản mạn trên khắp lát cắt ngang không theo một thứ tự nào. Những bó dẫn bên ngoài thường nhỏ xếp khít nhau, vòng cương mô bao xung quanh bó dẫn thường rất dày. Càng vào gần trục của thân, các bó dẫn càng lớn, xếp cách xa nhau hơn và vòng cương mô bao xung quanh rất mỏng (thân Ngô, Mía). Trong mỗi bó dẫn libe thường phân hóa hướng tâm, gỗ phân hóa ly tâm, có cấu tạo gồm: hai mạch điểm lớn xếp đối xứng nhau ngay dưới phần libe, một quản bào xoắn, một quản bào vòng và các tế bào nhu mô gỗ – những tế bào nhu mô này ở dưới các quản bào và thường tiêu biến đi tạo nên một khoảng trống. *Sự sinh trưởng thứ cấp của thân cây Một lá mầm: một số cây Một lá mầm sống nhiều năm (họ Cau – Arecaceae.) thân cây có sự sinh trưởng theo chiều dày, do có vòng mô phân sinh thứ cấp. Ở những cây này, mô phân sinh ngọn chỉ tạo thành một phần thân sơ cấp, còn phần lớn thân do mô phân sinh thứ cấp tạo nên, loại mô phân sinh này thường nằm dưới các mầm lá và phân chia tạo nên những dãy tế bào mô mềm ở phía ngoài khiến thân tăng thêm kích thước về chiều ngang. Kiểu sinh trưởng này gọi là sinh trưởng thứ cấp phân tán, vì nó nằm xa ngọn và không phải do hoạt động của một vùng mô phân sinh giới hạn nào tạo nên. Một kiểu sinh trưởng thứ cấp khác thường gặp ở những loài thân cây gỗ một lá mầm khác như: Huyết dụ, Huyết giác (Dracaenaceae)… Thân của chúng hàng năm dày thêm nhờ sự hình thành các bó dẫn mới (bó dẫn thứ cấp) trong thân, các bó này do các tế bào mô mềm nằm ngoài các bó dẫn được hình thành lúc đầu, có khả năng phân chia và họp thành một vòng phát sinh liên tục gọi là vòng dày. Các tế bào của vòng này sẽ phân chia theo vách tiếp tuyến về 2 phía: phía trong cho ra những bó dẫn thứ cấp và mô mềm, còn phía ngoài thì tạo ra mô mềm. Các bó dẫn trong thân cây 1 lá mầm có cấu tạo thứ cấp thường là những bó dẫn đồng tâm với libe bao quanh gỗ, trong đó: libe gồm các ống rây ngắn với nhiều vùng rây đơn, tế bào kèm và mô mềm libe; gỗ gồm các quản bào dài, các tế bào mô mềm gỗ có vách hóa gỗ…

Hình Thái Giải Phẫu Học Lá Cây

Hình thái giải phẫu học lá cây

Hoạt hình này mô tả các loại lá chính và sự khác biệt giữa lá của cây một lá mầm và cây hai lá mầm.

Sinh học

Từ khoá

lá, tĩnh mạch, loại lá, một lá mầm, dicotyledon, lá đơn, lá kép, tờ rơi, cây ngô, hạt dẻ, lỏng lẻo, mặt trên của lá, mặt dưới của lá, cuống lá, vỏ lá, lá có gân song song, tĩnh mạch chính, tĩnh mạch song song, băng bó mạch máu, lỗ hổng, mô trung mô, biểu bì, xylem, phloem, hoa, trao đổi khí, sessile, quang hợp, thân cây, giấy phép, thực vật, tế bào, nước, cây, mô, sinh học

Cây Một Lá Mầm Và Hai Lá Mầm

Cây một lá mầm là một nhóm các thực vật có hoa chứa một lá mầm trong phôi, đây là loài thực vật phổ biến nhất, chiếm phần lớn trên Trái Đất. Hiện nay, người ta ước tính có khoảng 50.000-60.000 loài trong nhóm thực vật này.

Đặc điểm về hình thái:

Hoa: số cánh hoa là bội số của 3, thông thường là 3 hoặc 6 cánh

Phấn hoa: phấn hoa có một lỗ hay rãnh cắt

Hạt: Hạt chứa phôi có một lá mầm

Thân: Thường là dạng thân cỏ, thân có mạch phân tán

Lá: các gân lá song song

Đặc điểm về hình thái:

So sánh cấu tạo thân cây 1 lá mầm và 2 lá mầm? – Kiểu thân của cây hai lá mầm thường là thân gỗ, thân cột, thân leo còn cây một lá mầm thì kiểu thân phổ biến nhất là thân cỏ

Cây phượng là cây mấy lá mầm? – Theo quan sát bằng mắt thường thì chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng rễ của cây phượng là rễ cọc, lá có gân hình mạng, hoa có từ 4 đến 5 cánh. Như vậy, cây phượng là cây hai lá mầm

Giữa cây một lá mầm và hai lá mầm cây lúa thuộc nhóm nào? – Thân cây lúa là thân cỏ, gân lá hình song song và là một loại cây có rễ chùm. Như vậy,cây lúa là cây một lá mầm

Cây bưởi là cây mấy lá mầm? – Các dấu hiệu để nhận biết cây một lá mầm và hai lá mầm ở cây bưởi là hoa (hoa bưởi có 5 cánh), lá bưởi có gân hình mạng, rễ cọc. Như vậy, cây bưởi là cây hai lá mầm

Cây ổi có mấy lá mầm? – Tương tự như cây phượng và cây bưởi, ổi cũng là một loại cây có hai lá mầm

Cho ví dụ về cây một lá mầm và hai lá mầm? – Từ việc trả lời những câu hỏi trên chúng ta có thể nhận biết và đưa ra các ví dụ về cây một lá mầm và cây hai lá mầm như:

Ví dụ về cây hai lá mầm: Cây ổi, cây cam, cây chanh, cây mít, cây sầu riêng,…

Những cây có một lá mầm: Cây họ Lan, cây tre, nứa, trúc, cây lúa, ngô,…

Cấu Tạo Thứ Cấp Của Thân Cây Hai Lá Mầm

Cấu tạo thứ cấp của thân cây Hai lá mầm Thân cây thực vật 2 lá mầm sống nhiều năm và cây hạt trần có cấu tạo thứ cấp, thân cây có khả năng tăng trưởng về bề ngang và kích thước do hoạt động của mô phân sinh thứ cấp: tầng phát sinh libe – gỗ (tầng phát sinh trụ) và tầng phát sinh bần – lục bì (tầng phát sinh vỏ), trong đó tầng phát sinh trụ có vai trò chủ yếu. Thân cây Một lá mầm và thân cây Hai lá mầm sống một năm không có cấu tạo thứ cấp. Cấu tạo thứ cấp của thân cây Hai lá mầm rất phức tạp. Người ta phân biệt thành các phần chính sau đây: a. Vỏ thứ cấp Thân cây Hai lá mầm đặc biệt là các thân cây gỗ, vỏ sơ cấp thường không giữ được lâu, một tầng phát sinh mới thay thế cho lớp biểu bì, đó là tầng phát sinh vỏ (hay tầng sinh bần – lục bì). Hoạt động của tầng này sẽ sinh ra lớp bần ở phía ngoài, gồm các tế bào chết có màng hóa bần, mặt ngoài của tầng bần có nhiều lỗ vỏ đảm bảo sự trao đổi khí giữa thân cây và môi trường. Các tế bào của lớp lục bì sẽ được hình thành ở phía trong – đó là các tế bào nhu mô sống có chứa lạp lục, có màng mỏng bằng cellulose. Tập hợp của những lớp này hình thành nên lớp chu bì của thân cây. Do sự hoạt động liên tục của tầng phát sinh vỏ, một tầng phát sinh vỏ mới được hình thành sâu ở trong lớp vỏ và một lớp bần mới được hình thành. Khi lớp bần mới được hình thành thì tất cả các mô nằm bên ngoài của nó bị chết đi và cùng với lớp bần tạo thành bộ phận che chở phía ngoài của thân – lớp này gọi là thụ bì. Khái niệm vỏ thứ cấp trong cấu tạo thứ cấp của thân là tập hợp tất cả các mô nằm phía ngoài tầng phát sinh, bao gồm: các tế bào libe, vỏ sơ cấp (nếu có), các tế bào của chu bì hoặc thụ bì. b. Tầng phát sinh trụ 68 Trong cấu tạo sơ cấp của thân, tầng trước phát sinh (tiền tượng tầng) đã hình thành nên libe sơ cấp và gỗ sơ cấp, một phần các tế bào của tầng này vẫn giữ trạng thái phân chia và khi kết thúc sự sinh trưởng sơ cấp sẽ trở thành tầng phát sinh (tượng tầng) hay tầng phát sinh trụ. Tầng phát sinh trụ thường nằm ở giữa bó gỗ và libe, thường gồm 2 loại tế bào: – Tế bào khởi sinh hình thoi: thường có dạng hình thoi kéo dài, những tế bào này có chiều dài gấp nhiều lần chiều rộng, chúng thường phân chia theo mặt phẳng tiếp tuyến để hình thành nên những yếu tố dẫn, yếu tố sợi và các tế bào nhu mô. – Tế bào khởi sinh tia: thường có dạng hình tròn, có số lượng ít hơn tế bào khởi sinh hình thoi. Những tế bào này thường tập hợp thành nhóm với số lượng và kích thước khác nhau, tùy từng loài cây. Hoạt động của những tế bào này sẽ sinh ra tia ruột thứ cấp (gồm tia gỗ và tia libe). Các tế bào của tầng phát sinh có thể sắp xếp thành tầng hoặc không, hoạt động của những tế bào này có thể thường xuyên hoặc định kỳ theo mùa (thường gặp ở những cây gỗ sống ở vùng có khí hậu thay đổi theo mùa). c. Libe thứ cấp và gỗ thứ cấp + Libe thứ cấp: có cấu tạo phức tạp hơn libe sơ cấp, bao gồm: Mạch rây, tế bào kèm cùng với mô mềm hợp thành libe mềm. Sợi libe, mô cứng và tế bào đá hợp thành libe cứng, ở một số loài gặp các cấu trúc tiết nằm xen kẽ với các tế bào libe. Libe thứ cấp gồm những tế bào có màng mỏng, độ cứng kém nên thường bị gỗ dồn ra phía ngoài vỏ và bẹp dần lại. Trong cấu tạo thứ cấp của thân các yếu tố libe sơ cấp vẫn có thể tồn tại nhưng cũng bị tình trạng tương tự như libe thứ cấp và sau vài năm có thể bị biến mất đi. + Gỗ thứ cấp: gỗ là phần chiếm chủ yếu trong cấu tạo thứ cấp của thân cây, trong gỗ thường gồm các loại mô chính: mô cơ bản, mô cơ và mô dẫn. – Mô cơ bản: mô cơ bản trong gỗ thứ cấp gồm 3 loại mô chính: nhu mô gỗ, nhu mô gỗ hình thoi (sợi thay thế) và tia ruột (tia gỗ) tất cả các loại mô này đều có chức năng dự trữ. Nhu mô gỗ: là những tế bào sống thướng có dạng hình ống, có vách ngăn ngang, màng của chúng thường hóa gỗ song không quá dày, tế bào thường có chứa các chất dự trữ: tinh bột, các loại tinh dầu… Nhu mô hình thoi (sợi thay thế): tế bào thường có dạng hình thoi dạng sợi, có màng hóa gỗ, không có vách ngăn ngang, 2 đầu tế bào thường nhọn, có một nhân và thường làm nhiệm vụ dự trữ. Tia ruột: cấu tạo bởi những tế bào có dạng hình chữ nhật (trên lát cắt ngang) đó là những tế bào sống, màng hóa gỗ, tập trung thành từng tia chạy theo hướng phóng xạ từ trục của thân ra phía ngoài. 69 -Mô cơ: gồm các tế bào cương mô, màng dày hóa gỗ, tế bào thường có dạng hình thoi 3 đầu nhọn, những tế bào đó còn gọi là các tế bào sợi gỗ – đó là những tế bào chết, không chứa chất sống, có tác dụng nâng đỡ về mặt cơ học cho thân cây. – Mô dẫn: bao gồm quản bào và mạch thông, chúng có thể nằm rải rác ở trong gỗ và sắp xếp thành vòng (ở cây thực vật hạt trần thường chỉ có quản bào). d. Khái niệm vòng gỗ hàng năm Trong gỗ thứ cấp của thân các cây gỗ thường gặp những vòng gỗ đồng tâm hoặc tương đối đồng tâm, người ta gọi đó là những vòng gỗ hàng năm, chúng được hình thành do tầng phát sinh trụ hoạt động không đồng đều theo mùa: Mùa xuân và mùa hè khí hậu ẩm và nóng, cây hoạt động mạnh, dẫn truyền nhiều, tầng phát sinh trụ sản sinh ra các tế bào gỗ có màng mỏng, kích thước lớn, tập hợp những tế bào này tạo thành một vòng gỗ nhạt màu và rộng. Cuối thu sang đông, khí hậu khắc nghiệt, cây hoạt động rất ít hoặc ngưng hoạt động (thường gặp ở những cây rụng lá về mùa đông) tượng tầng hoạt động sẽ sản sinh ra các tế bào gỗ có kích thước nhỏ, màng dày, những tế bào này sẽ làm thành một vòng gỗ hẹp và sẫm màu. Như vậy, cứ một năm cây thường sản sinh ra một vòng gỗ sẫm màu, hẹp và một vòng gỗ nhạt màu rộng, Tuy nhiên, sự hình thành những vòng gỗ như trên chỉ mang tính chất tương đối. e. Khái niệm gỗ vỏ và gỗ lõi Việc dẫn truyền nước và muối khoáng hòa tan từ rễ lên lá là do các mạch dẫn trong phần gỗ của thân đảm nhận, song mức độ dẫn truyền không phải đồng đều trên mọi phần gỗ, người ta phân biệt: – Gỗ vỏ (dác): là vùng gỗ bên ngoài không màu hoặc có màu nhạt, có khả năng hoạt động dẫn truyền tốt. – Gỗ lõi (ròng): là vùng gỗ bên trong thường có màu sẫm hơn gỗ vỏ, có độ cứng hơn gỗ vỏ, gỗ lõi có chứa các thể nút (được hình thành do các tế bào nhu mô chui vào thành mạch, phình lên tạo thành những thể nút bít kín thành mạch lại), các chất gôm, dầu, tanin… gỗ lõi không có khả năng dẫn truyền hoặc dẫn truyền rất yếu và giữ chức phận nâng đỡ về mặt cơ học cho thân cây. Hình 3.10. Cấu tạo giải phẫu của thân cây Hai lá mầm 1. Lớp bần; 2. Nhu mô vỏ; 3. Tia ruột; 4. Sợi libe; 5. Nhu mô libe thứ cấp;6. Tầng phát sinh libe gô; 7. Gỗ thứ cấp; 8. Gỗ sơ cấp. (Nguồn: F.K. Tikhomirov,1978) 70 a. Biểu bì Gồm một lớp tế bào sống, có các tế bào lỗ khí nằm xen kẽ, màng ngoài của tế bào biểu bì có thể thấm thêm silic, có tầng cutin khá dày, hoặc phủ một lớp sáp, có thể có lông, gai… b. Lớp cương mô Nằm ngay bên dưới biểu bì là những tế bào cương mô, những tế bào cương mô này có thể sắp xếp thành vòng hoặc từng đám, nằm xen lẫn với các tế bào nhu mô có chứa lạp lục. Những đám cương mô này có thể kéo dài vào trong nối liền với những vòng cương mô bao xung quanh các bó dẫn. f. Khái niệm cây thân gỗ và cây thân thảo 2 lá mầm Trong hình thái tiến hóa thực vật, những dạng cây thân gỗ được xem là nguyên thủy hơn những dạng cây thân thảo. Người ta phân biệt cây thân gỗ và cây thân thảo 2 lá mầm chủ yếu dựa vào sự sinh trưởng thứ cấp của thân do hoạt động của tầng phát sinh trụ. Ở cây thân gỗ, quá trình sinh trưởng thứ cấp kéo dài trong suốt đời sống của cây, còn ở cây thân thảo, quá trình sinh trưởng thứ cấp của thân bị đình chỉ khi cây ra hoa và tạo quả…

Cấu Tạo Giải Phẫu Của Rễ Cây

Cấu tạo giải phẫu của rễ cây 2.1. Cấu tạo chóp rễ và miền sinh trưởng a. Chóp rễ Là phần tận cùng của rễ, có nhiệm vụ bảo vệ cho mô phân sinh ngọn, nên các tế bào ngoài của nó thường có màng hóa nhầy, hóa bần để giảm bớt ma sát khi đâm sâu vào đất. 54 Các tế bào của chóp rễ là những tế bào sống, thuộc mô mềm bên trong có chứa nhiều tinh bột. b. Miền sinh trưởng (mô phân sinh đầu rễ) Mô phân sinh đầu rễ phân hóa cho ra các mô của rễ, mô phân sinh đầu rễ thường gồm có 3 phần: – Tầng sinh bì: hoạt động của tầng này cho ra lớp biểu bì của rễ cây. – Tầng sinh vỏ: hoạt động sinh ra các tế bào của vỏ sơ cấp. – Tầng sinh trụ: hoạt động của tầng này cho ra trụ giữa của rễ cây, chứa mô dẫn và nhu mô ruột. Cả 3 tầng trên cùng xuất phát từ một nhóm tế bào khởi sinh ở đỉnh rễ, nhóm tế bào đó họp thành đỉnh sinh trưởng (hay nón sinh trưởng) của rễ. 2.2. Cấu tạo sơ cấp của rễ cây (cấu tạo miền hấp thu) Khi cắt ngang qua tầng lông hút (miền hấp thu) của rễ cây, người ta phân biệt được các phần chính sau đây: a. Lớp biểu bì Biểu bì của rễ gồm các tế bào dài, có màng mỏng thường xếp sát nhau, màng của tế bào biểu bì có thể hóa cutin hoặc hóa bần (ở các loài có biểu bì tồn tại lâu). Biểu bì của rễ thường gồm 1 lớp tế bào. Ở rễ không khí của nhiều cây họ Lan (Orchidaceae) và rễ biểu sinh của các cây họ Ráy (Araceae) biểu bì của rễ thường có nhiều lớp – gọi là lớp velamen: gồm nhiều tế bào có màng dày hóa bần, đó chính là loại mô hấp thu và dự trữ nước của cây. Các tế bào biểu bì có khả năng hình thành lông rễ, nên miền này còn gọi là miền lông rễ, lông rễ thường có mặt ở phần rễ nằm cách đỉnh một đoạn (thường không có ở miền sinh trưởng và miền trưởng thành của rễ cây). Độ dài của miền lông rễ thường không đổi và có tính đặc trưng loài. b. Vỏ sơ cấp Vỏ sơ cấp của rễ cây cấu tạo gồm nhiều lớp ’74ế bào nhu mô và có cấu tạo tương đối đồng đều. Đối với những rễ cây có sinh trưởng thứ cấp (cây Hạt trần và cây 2 lá mầm) thì vỏ sơ cấp của rễ chỉ cấu tạo bởi những tế bào nhu mô và có thể sớm bị bong đi, đối với rễ cây thực vật 1 lá mầm (rễ cây không có cấu tạo thứ cấp) thì trong vỏ sơ cấp còn có các tế bào cương mô nằm rải rác (rễ Cau, Dừa…). Khi quan sát từ ngoài vào, vỏ sơ cấp của rễ gồm có các phần chính sau đây: – Ngoại bì: nằm ngay dưới lớp biểu bì, có thể gồm 1 hoặc nhiều lớp tế bào. Các tế bào ngoại bì thường là những tế bào đa giác, màng hóa bần, nhưng nằm xen kẽ với các tế bào có màng hóa bần đó vẫn có những tế bào màng mỏng bằng cellulose để cho nước thấm qua (gọi là tế bào cho qua). Sau khi tầng lông hút rụng đi, ngoại bì sẽ hóa 55 – Hệ thống dẫn: các bó gỗ và libe nằm riêng biệt, sắp xếp xen kẽ nhau theo kiểu bó dẫn xuyên tâm. Gỗ sơ cấp của rễ cây phân hóa theo hướng hướng tâm (gỗ trước xuất hiện đầu tiên nằm ngay dưới vỏ trụ, còn gỗ sau lại nằm ở gần giữa). Libe sơ cấp cũng phân hóa theo hướng hướng tâm (libe trước xuất hiện đầu tiên nằm ở phía ngoài, libe sau nằm ở phía trong). – Tủy (Ruột): là phần trong cùng của rễ cây, gồm những tế bào có màng mỏng, hình tròn hoặc đa giác. Ở một số rễ cây (rễ phụ của si) phần tủy thường không có do các mạch gỗ phát triển mạnh chiếm cả phần tủy. bần hoàn toàn và làm nhiệm vụ che chở. Ở thực vật 2 lá mầm, ngoại bì sẽ được thay thế bởi mô bì thứ cấp. – Nhu mô vỏ: gồm nhiều lớp tế bào có màng mỏng bằng cellulose sắp xếp đồng đều thành vòng hoặc dãy xuyên tâm. Ở các rễ cây sống dưới nước, phần mô mềm ở phía trong sắp xếp đồng đều thành vòng đồng tâm, còn ở phía ngoài có các khoảng gian bào lớn, có tác dụng như mô thông khí. Tế bào của nhu mô vỏ thường không chứa diệp lục (trừ rễ không khí của Phong lan) thường có chứa tinh bột, các loại tinh thể và hệ thống bài tiết ở rễ Cau, Dừa… (Arecaceae) nằm xen kẽ trong lớp nhu mô thường có các đám cương mô nằm rải rác. – Nội bì: là lớp trong cùng của vỏ sơ cấp, thường gồm một lớp tế bào hình khối chữ nhật, sắp xếp sít nhau, thường có cấu tạo đặc trưng bởi khung caspari. Ở rễ thực vật 2 lá mầm, khung caspari được hình thành do sự hóa bần của vách xuyên tâm của các tế bào nội bì. Ở rễ thực vật 1 lá mầm, sự hóa bần xảy ra không những ở vách xuyên tâm mà cả ở vách tiếp tuyến phía trong cũng hóa bần, do đó khung caspari thường có dạng hình chữ U. Nằm rải rác trong vòng nội bì vẫn có những tế bào có màng mỏng không hóa bần – gọi là các tế bào hút, các tế bào này thường nằm ở đầu các bó gỗ, có nhiệm vụ dẫn nước đi từ vỏ vào trong trung trụ. c. Trung trụ (trụ giữa) Là phần giữa của rễ cây, gồm các phần chính sau đây: – Trụ bì (vỏ trụ): là lớp ngoài cùng của trung trụ, nằm ngay sát nội bì, gồm các các tế bào nhu mô có màng mỏng, thường có kích thước nhỏ hơn và xếp so le với các tế bào nội bì. Vỏ trụ có thể gồm 1 lớp tế bào (ở thực vật hạt kín) hoặc nhiều lớp (ở thực vật hạt trần). Vỏ trụ có khả năng hóa cứng từng phần hay toàn bộ (ở rễ già các thực vật 1 lá mầm). Vỏ trụ của cây thực vật hạt trần và cây thực vật hạt kín có khả năng phân chia để hình thành rễ bên, tham gia vào việc hình thành tầng phát sinh trụ và tầng phát sinh vỏ.