Cấu Tạo Của Xương Chân / Top 6 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Nhatngukohi.edu.vn

Cấu Tạo Xương Bàn Chân, Gãy Xương Bàn Chân Bao Lâu Thì Lành?

Cấu tạo bàn chân, xương bàn chân

Bàn chân và cổ chân tạo thành một cấu trúc phức tạp bao gồm:

✲ 26 xương hình dạng không đều

✲ 30 khớp hoạt dịch

✲ 30 cơ tác động lên các phân đoạn. Các khớp xương bàn chân tương tác hài hòa với cơ thể con người để thuận lợi cho quá trình vận động, đi lại.

Bàn chân được chia làm 3 vùng:

Bàn chân sau bao qồm xương sên và xương gót

Bàn chân giữa bao gồm xương ghe, 3 xương chêm và xương hộp

Bàn chân trước bao gồm xương bàn ngón và xương ngón chân

Các khớp bàn chân

Khớp cổ chân: là một khớp bản lề một trục được tạo bởi xương chày và xương mác, xương chày và xương sên.

Khớp dưới sên: là khớp giữa xương sên và xương gót. Đây là các xương chịu trọng lượng lớn của bàn chân và tạo thành bàn chân sau.

Khớp cổ – bàn ngón chân: là các khớp trượt, tạo các chuyển động giữa các xương chêm, xương hộp với các xương bàn ngón

Các cung vòm của bàn chân

Các xương cổ chân và bàn ngón tạo nên ba vòm, hai vòm chạy theo chiều dọc và một vòm chạy ngang bàn chân

Vòm dọc bên ngoài được hình thành bởi xương gót, xương hộp, xương bàn ngón thứ tư và thứ năm.

Vòm dọc trong chạy từ xương gót đến xương sên, ghe, chêm và ba xương bàn ngón đầu tiên.

Vòm ngang được tạo bởi các xương cổ chân nêm vào và nền các xương bàn ngón.

Các cơ ở bàn chân

Cơ ở mu chân là cơ nhỏ, giúp cơ duỗi các ngón chân.

Cơ ở gan chân giúp giữ vững các vòm gan chân và làm cho con người đứng vững trên mặt đất.

Bàn chân bao gồm nhiều xương, các cơ và khớp bàn chân, tạo lên một bàn chân vững chắc, giúp con người di chuyển, vận động hàng ngày. Nếu một trong các xương bàn chân, cơ hoặc khớp bị tổn thương, sẽ khiến quá trình vận động của con người bị hạn chế.

Gãy xương bàn chân

Gãy xương bàn chân là một chấn thương rất hay gặp, ảnh hưởng tới chức năng vận động của cơ thể, vì thế cần được cấp cứu và xử trí kịp thời.

Nguyên nhân gãy xương bàn chân

Gãy xương chân là tình trạng xương bị vỡ, nghiền nát hoặc uốn cong do các nguyên nhân như:

Gãy xương ngón chân do va chạm, đá vào vật cứng

Gãy xương gót chân do ngã từ trên cao xuống, tai nạn

Gãy các xương khác ở bàn chân do lực xoáy, vặn mạnh ở bàn chân hoặc tai nạn giao thông, té ngã, vận động quá mức

Gãy xương bàn chân thường bị đột ngột. Nhiều trường hợp gãy từ những vết nứt nhỏ ở xương trong thời gian dài trước đó. Trường hợp này hay gặp ở những vận động viên điền kinh, bộ đội…

Dấu hiệu cảnh báo gãy xương

Khi bị gãy xương, người bệnh sẽ thấy xuất hiện các triệu chứng như:

Đi lại khó khăn

Biến dạng xương như xương gãy đâm ra ngoài hoặc bàn chân trẹo hẳn sang một bên

Khi thấy xuất hiện các triệu chứng bất thường ở bàn chân, bạn nên tới các bệnh viện có chuyên khoa Cơ xương khớp để bác sĩ trực tiếp thăm khám. Qua khám lâm sàng, kết hợp làm các chẩn đoán chuyên sâu như X-quang, bác sĩ sẽ xác định chính xác xương gãy, mức độ gãy xương. Từ đó đưa ra phương pháp điều trị phù hợp, nhanh chóng và hiệu quả nhất.

Gãy xương bàn chân bao lâu thì lành?

Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của gãy xương bàn chân, độ tuổi của từng người bệnh sẽ có thời gian phục hồi khác nhau.

Trường hợp gãy xương nhẹ chỉ cần bó bột, đeo nẹp thì thời gian phục hồi nhanh hơn.

Ngược lại trường hợp gãy xương mức độ nặng cần phải phẫu thuật đặt đinh, ốc vít… thì thời gian phục hồi lâu hơn.

Thông thường, khi bị gãy xương sẽ lành lại sau 2-3 tháng.

Để bệnh sớm hồi phục, người bệnh gãy xương cần tuân thủ theo đúng phương pháp điều trị của bác sĩ, dùng đúng thuốc, đủ liều lượng và thời gian quy định. Đồng thời tuân thủ theo hướng dẫn về chế độ nghỉ ngơi, sinh hoạt và ăn uống khoa học, tái khám kiểm tra theo đúng lịch hẹn.

Cấu Tạo, Cách Hoạt Động Của Bàn Chân

Cấu tạo xương bàn chân: Bàn chân có thể được chia thành ba vùng. Bàn chân sau (rearfoot) bao gồm xương sên và xương gót; bàn chân giữa (midfoot) bao gồm xương ghe, 3 xương chêm và xương hộp; và bàn chân trước gồm các xương bàn ngón và các xương ngón chân.

Khớp: Hầu hết các vận động ở chân xảy ra tại ba khớp hoạt dịch: khớp cổ chân (talocrural), khớp dưới sên (subtalar) và khớp giữa cổ chân (midtarsal). Bàn chân di chuyển trong ba mặt phẳng hầu hết các vận động xảy ra trong chân sau.

Khớp cổ chân (talocrural) là một khớp bản lề một trục được tạo bởi xương chày và xương mác (khớp chày mác) và xương chày và xương sên (khớp chày sên). Khớp này là một khớp vững với xương chày và xương mác tạo thành một ổ sâu cho ròng rọc xương sên như một lỗ mộng. Phần trong của lỗ mộng là mặt trong của mắt cá trong, phần ngoài của lỗ mộng là mặt trong của mắt cá ngoài. Mắt cá ngoài xuống thấp hơn mắt cá trong và bảo vệ các dây chằng bên ngoài của cổ chân và chống lại di lệch ra ngoài. Xương chày và xương mác vừa khít trên ròng rọc xương sên là một xương có phần trước rộng hơn phần sau. Sự khác nhau về độ rộng của xương sên cho phép một ít chuyển động dạng khép của bàn chân.

Khớp dưới sên (Subtalar Joint) hoặc sên-gót là khớp giữa xương sên và xương gót. Xương sên và xương gót là các xương chịu trọng lượng lớn của bàn chân và tạo thành bàn chân sau. Xương sên nối hai xương cẳng chân với bàn chân và được xem là viên đá đỉnh vòm của bàn chân. Xương gót mang lại một cánh tay đòn cho gân Achilles và phải đáp ứng được lực tải tác động lớn vào lúc đánh gót và các lực lượng cường độ lớn từ cơ bụng chân và cơ dép. Xương sên khớp với xương gót ở ba mặt, trước, sau và trong, với mặt lồi của xương sên khớp với mặt lõm xương gót. Có 5 dây chằng mạnh và ngắn nâng đỡ khớp dưới sên, hạn chế vận động của khớp này. Trục xoay của khớp dưới sên chạy xéo từ phía sau bên mặt lòng đến phía trước trong mặt mu xương sên. Trục xấp xỉ 42° ở mặt phẳng trán và 16° ở mặt phẳng ngang Vận động xảy ra theo ba mặt phẳng và được gọi là quay sấp và quay ngửa.

Quay sấp: xảy ra trong một hệ thống chuỗi mở với bàn chân hở mặt đất, bao gồm vặn ngoài (mặt phẳng trán) xương gót, dạng (mặt phẳng ngang), và gập mu bàn chân (mặt phẳng trước sau).

Quay ngửa: ngược với quay sấp, với gót vặn trong (mặt phẳng trán), khép (mặt phẳng ngang) và gập lòng (mặt phẳng trước sau) ở tư thế không chịu trọng lượng

Vặn trong và vặn ngoài của khớp dưới sên có thể đo được bằng góc tạo thành giữa cẳng chân và xương gót. Vặn trong khớp dưới sên có thể từ 20°đến 30°. Vặn trong sẽ giảm đáng kể ở những người bị thoái hóa khớp cổ chân. Vặn ngoài trung bình khoảng 4-5°. Hầu hết bệnh nhân viêm khớp, vặn ngoài quá mức xương gót tạo nên biến dạng bàn chân sau vẹo ngoài.

Các khớp khác của bàn chân giữa là các khớp trượt với vận động trượt và xoay nhỏ. Bàn chân trước gồm các xương bàn ngón và xương ngón chân cùng với các khớp giữa chúng. Chức năng của bàn chân trước là duy trì vòm ngang giữa bàn chân, vòm dọc trong, và giữ sự linh hoạt của xương bàn ngón thứ nhất. Mặt phẳng của bàn chân trước ở đầu xương bàn ngón được tạo bởi các xương bàn ngón thứ hai, thứ ba, và thứ tư. Mặt phẳng này vuông góc với trục dọc của gót chân trong sự chỉnh thẳng bàn chân trước bình thường. Đó là vị trí trung gian của bàn chân trước. Nếu mặt phẳng này bị nghiêng vào trong (mặt trong nâng lên) thì gọi là bàn chân trước ngửa hoặc varus, ngược lại nếu mặt phẳng nghiêng ra ngoài gọi là bàn chân trước sấp hoặc valgus. Nếu xương bàn ngón thứ nhất nằm dưới mặt phẳng của các xương bàn đốt kế cận, gọi là hàng đầu gập lòng, thường kết hợp với bàn chân hõm.

Khớp cổ- bàn ngón chân (tarsometatarsal): là các khớp trượt, cho phép chuyển động hạn chế giữa các xương chêm, xương hộp với các xương bàn ngón.

Các vận động khớp cổ-bàn ngón chân thay đổi hình dạng của vòm ngang bàn chân. Khi xương bàn ngón chân thứ nhất gập và dạng và xương bàn đốt thứ năm gập và khép, vòm sâu hơn hoặc tăng độ cong. Tương tự như vậy, nếu xương bàn ngón thứ nhất duỗi và khép và xương bàn ngón thứ năm duỗi và dạng, vòm bẹt xuống.

Gấp và duỗi ở các khớp cổ- bàn ngón chân cũng góp phần vào động tác vặn trong và vặn ngoài của bàn chân. Khớp giữa xương chêm đầu và xương bàn ngón thứ nhất vận động nhiều, cho phép xương bàn ngón thứ nhất chịu trọng lượng và tạo lực đẩy tới. Các khớp cổ- bàn ngón chân được làm vững bởi các dây chằng mu chân trong và ngoài.

Các khớp bàn -ngón chân (metatarsophalangeal) là khớp hai trục, cho phép gập duỗi và dạng khép. Những khớp này chịu tải trong giai đoạn đẩy tới của dáng đi sau nhấc gót chân và bắt đầu gấp lòng bàn chân, gấp các ngón chân. Duỗi ngón chân nhiều hơn ngón tay do đòi hỏi của giai đoạn đẩy tới của dáng đi.

Các khớp gian đốt ở bàn chân tương tự bàn tay, là khớp một trục cho phép gấp duỗi ngón chân. Các ngón chân ít chức năng hơn ngón tay bởi vì chúng thiếu một cấu trúc đối diện như ngón tay cái.

Các xương cổ chân và bàn ngón tạo nên ba vòm, hai vòm chạy theo chiều dọc và một vòm chạy ngang bàn chân. Cơ cấu này tạo nên một hệ thống hấp thụ sốc đàn hồi. Khi đứng, một nửa trọng lượng được chịu bởi gót chân và một nửa bởi các xương bàn ngón ở trước với một phần ba trọng lượng này là ở xương bàn ngón thứ nhất.

Vòm dọc bên ngoài được hình thành bởi xương gót, xương hộp, xương bàn ngón thứ tư và thứ năm. Vòm này tương đối bằng phẳng và ít di động. Bởi vì nó thấp hơn so vòm dọc trong, vòm ngoài có thể chạm đất và chịu một phần trọng lượng trong vận động, do đó đóng vai trò nâng đỡ trong bàn chân.

Vòm dọc trong chạy từ xương gót đến xương sên, ghe, chêm và ba xương bàn ngón đầu tiên. Nó linh hoạt và di động hơn so với vòm ngoài và đóng một vai trò quan trọng trong việc hấp thụ lực sốc khi tiếp xúc với mặt đất. Mặc dù vòm dọc trong thay đổi khi vận động, nó thường không chạm đất, trừ khi một người có bàn chân phẳng chức năng. Vòm dọc trong được nâng đỡ bởi xương sên, dây chằng gót- sên, dây chằng dọc gan chân, và mạc gan chân (fascia plantar), một mạc xơ dày cày từ xương gót đến khớp bàn- ngón chân.

Vòm ngang được tạo bởi các xương cổ chân nêm vào và nền các xương bàn ngón. Các xương hoạt động như các thanh xà nâng đỡ vòm này, dẹt xuống khi chịu trọng lượng và có thể chịu ba đến bốn lần trọng lượng cơ thể.

Dựa vào chiều cao của vòm trong có thể chia làm bàn chân bình thường, hõm (vòm cao) và bẹt (bàn chân bằng). Bàn chân hõm có phần giữa bàn chân không chạm đất, có khả năng hấp thu lực kém. Ngược lại, bàn chân bẹt, thường tăng vận động, có mặt lòng bàn chân tiếp đất nhiều nhất và làm yếu mặt trong. Loại bàn chân này thường kết hợp với quay sấp quá mức suốt thì tựa của dáng đi.

Cơ góp phần quan trọng vào cấu tạo bàn chân con người: Có hai mươi ba cơ tác động lên cổ chân và bàn chân, 12 có nguồn gốc ngoài bàn chân và 11 bên trong bàn chân. Tất cả 12 cơ bắp bên ngoài, ngoại trừ cơ bụng chân, cơ dép, và cơ gan chân (plantaris), tác dụng lên cả các khớp dưới sên và khớp giữa bàn chân. Các cơ của bàn chân đóng một vai trò quan trọng trong việc chịu các tác động có cường độ rất cao. Chúng cũng tạo ra và hấp thụ năng lượng trong khi vận động. Các dây chằng và gân cơ lưu trữ một phần năng lượng cho sự trở lại sau đó. Ví dụ, gân Achilles có thể lưu trữ 37 jun (J) năng lượng đàn hồi, và các dây chằng của vòm chân có thể lưu trữ 17 J khi bàn chân hấp thụ các lực và trọng lượng cơ thể.

Cơ ở mu chân Chỉ có một cơ nhỏ ở mu chân, cơ duỗi các ngón chân ngắn (extensor digitorum brevis), và cơ này tương đối ít quan trọng. Nguyên uỷ: mặt trên và ngoài của phần trước xương gót, ở phía trước-trong mắt cá ngoài. Bám tận: cơ chia thành bốn bó đến bám vào nền đốt gần ngón cái và vào gân đi vào các ngón chân II, III và IV của cơ duỗi các ngón chân dài. Bó đi vào ngón chân cái được gọi là cơ duỗi ngón cái ngắn (extensor hallucis brevis). Động tác: hỗ trợ cơ duỗi ngón cái dài và cơ duỗi các ngón chân dài trong việc duỗi các ngón chân I – IV.

Các cơ ở gan chân Có bốn lớp cơ ở gan chân. Các cơ này đã được biệt hoá để giúp giữ vững các vòm gan chân và làm cho con người đứng vững trên mặt đất hơn là để thực hiện các chức năng tinh tế như các cơ ở bàn tay. Lớp cơ nông (lớp thứ nhất) gồm ba cơ, tất cả đều đi từ phần sau cùa xương gót tới các ngón chân. Tính từ trong ra ngoài, ba cơ của lớp nông là: cơ giạng ngón cái, cơ gấp các ngón chân ngắn và cơ giạng ngón út. Cả ba cơ này hợp thành một nhóm đóng vai trò giữ vững các vòm gan chân và duy trì độ lõm của gan chân. Lớp cơ giữa (lớp thứ hai) gồm hai cơ nội tại của gan chân là cơ vuông gan chân và các cơ giun. Lớp này còn có gân của cơ gấp các ngón chân dài và cơ áp ngón cái dài từ cẳng chân đi xuống. Gân cơ gấp các ngón chân dài bắt chéo mặt nông của gân cơ gấp ngón cái dài và là chỗ bám các cơ nội tại của gan chân.

Lớp cơ sâu (lớp thứ ba) bao gồm các cơ ngắn của ngón cái và ngón út nằm ở nửa trước gan chân: cơ gấp ngón cái ngắn, cơ khép ngón cái, cơ gấp ngón út ngắn.

Lớp cư gian cót (lớp thứ tư) gồm ba cơ gian cốt gan chân và bốn cơ gian cốt mu chân. Chúng chiếm những khoảng nằm giữa các xương đốt bàn chân.

Về chi phối thần kinh, cơ gan chân, cơ giang ngón cái. cơ gấp ngắn ngón cái và cơ giun I do thần kinh gan chân trong chi phối, tất cả các cơ còn lại do thần kinh gan chân ngoài chi phối.

Mạc (mạc sâu) của gan chân dày lên tạo cân gan chân (plantar aponeurosis). Cân gan chân có hình tam giác và chiếm vùng trung tâm của gan chân. Phần mạc phủ các cơ giạng của ngón cái và ngón thứ hai thì vẫn mỏng. Đỉnh của cân gan chân bám vào củ gót. Nền của cân gan chân chia ra ở ngang gốc các ngón chân thành 5 chẽ, mỗi chẽ lại tách đôi để bao quanh các gân gấp và cuối cùng hoà lẫn với bao sợi gân gập. Tư các bờ trong và ngoài của cân gan chân, nơi nó liên tiếp với mạc phủ các cơ giạng ngón cái và ngón út, có các vách sợi chạy lên vào gan chân và tham gia vào sự hình thành các ngăn mạc của gan chân.

Chó Mèo Bị Gãy Chân , Gãy Xương, Rạn Xương

Cấu tạo bộ xương của chó mèo

cấu tạo xương chó

Cấu tạo xương ở chó, bộ xương là đòn bẩy của chuyển động, là chỗ tựa của những phần mềm trong cơ thể, là cơ quan bảo vệ, là chỗ để phát triển những cơ quan tạo máu (tủy xương Bộ xương chó cấu trúc từ 247 xương và 262 khớp. Cột sống bao gồm 7 đs cổ, 13 đs ngực, 7 đốt sống thắt lưng, 3 đốt sống khum, 20 – 23 đs đuôi (một vài loài chỉ có 5 – 6 đốt sống đuôi. Chó có 13 đôi xương sườn) Chân trước bắt đầu từ xương bả vai, x. cánh tay, x. cẳng tay (x. trụ và x. quay), x.cổ tay (có 7 x. nhỏ), x. bàn tay (có 5 xương), x. ngón tay (có 4 ngón 3 đốt, 1 ngón 2 đốt). Xương chân trước liên kết với các đốt sống không phải là khớp mà bằng những cơ chắc chắn. Phía trên x. bả vai là vây. Chiều cao vây là chiều cao của chó và là một chỉ tiêu xác định giá trị giống của nó. Độ lệch với tiêu chuẩn cao hơn giới hạn trên và thấp hơn giới hạn dưới được coi là khuyết tật. đỏ), tham gia vào những quá trình trao đổi chất và sinh học trong cơ thể, là kho dự trữ của những chất vô cơ cũng như hữu cơ.

A – Sơ đồ bộ xương chó: 1. Sọ; 2. 3. 4. 5. Đốt xương sống cổ, lưng, vùng thận, vùng đuôi; 6. U; 7. Xương sườn; 8. Chậu; 9. Xương vai; 10, 11, 12. Xương chân; 13. Xương mắt cá; 14, 15. Xương ngón và bàn chân; 16, 17, 18, 19, 20. Các xương tương tự của chi sau. B – 21. Mắt; 22. Mũi; C – Chân nhìn từ dưới: 23. Đệm cổ chân; 24. Sụn; 25. Đệm ở bàn chân; 26. Móng; 27. Đệm ở ngón chân

Xương chân sau bắt đầu từ xương chậu, x. đùi, x. cẳng chân, x. cổ chân (có 7 xương nhỏ), x. bàn chân có 4 hoặc 5 xương, x. ngón chân có 4, đôi khi mặt trong từ nửa trên x. bàn có 1 ngón bất toàn (huyền đề) – không phải ở cá thể nào cũng liên kết với khối xương bàn chân.

Ở nước ngoài, người ta coi nó như một hiện tượng không mong muốn, có thể cắt bỏ nó khi chó còn non; ở Việt Nam, người ta quan niệm như một cơ hội may mắn: “Dù ai buôn bán trăm nghề, không bằng nuôi chó huyền đề 4 chân”. Xương chân sau có một khớp nối với xương chậu (ổ cối), được cố định bằng các cơ của nhóm cơ chậu đùi.

Cấu tạo xương mèo

Bộ xương của mèo gồm 7 đốt sống cổ, 13 đốt sống ngực, 7 đốt sống lưng, 3 đốt sống hông và 14 – 28 đốt sống đuôi. Nhờ cấu tạo bộ xương nhỏ và có nhiều đốt sống nên mèo di chuyển và cuộn tròn lại một cách dễ dàng. Cấu tạo xương đuôi dài giúp cho mèo giữ thăng bằng khi di chuyển nhanh hoặc lúc rơi.

Mèo là loài vật khó bị tổn thương khi rơi từ trên cao hay bị ném ra xa. Bởi đôi chân mèo giống như một bộ lò xo giảm xóc và cơ thể mèo trong trạng thái rơi tự do gần như lấy lại thăng băng ngay lập tức nhờ có phản xạ thăng bằng giúp nó xoay người sang tư thế thích hợp để tiếp đất.

Người ta nói ” lười như mèo ” cũng đúng vì thời gian ngủ trung bình của chúng là 13-14 giờ/ ngày. Tuy thích ngủ ngày nhưng mèo là những kẻ siêng “cày” đêm. Thực ra thì cấu tạo thị giác của mèo thích hợp với nhìn trong bóng đêm hơn là nhìn dưới ánh sáng ban ngày. Các nghiên cứu y học cho thấy để sáng mắt “đi đêm”, mèo cần một chất giống như chất “ngưu hoàng” (sỏi mật của trâu), rủi ro thay cho giòng họ nhà Tý (chuột) lại là những kẻ mang trong mình “báu vật” này!

Tới mùa sinh sản, mèo cái thường lân la tìm mèo đực sau khi đã tự chải chuốt bộ lông óng mượt và gợi cảm. Mỗi lứa mèo đẻ từ 2 – 4 con. Mèo con 1 tháng tuổi đã được mèo mẹ dạy cách săn mồi qua các động tác như chạy, nhảy, leo, trèo, rình, vồ… Đến 4 tháng tuổi mèo con đã có thể bắt được chuột.

Dấu hiệu của chó mèo bị gãy chân, gãy xương, rạn xương

+ Không di chuyển được hoặc khó khăn trong việc đi lại + Chân bị sưng + chó mèo có các hoạt động khác thường + Chân bị biến dạng (Chân bị ngắn lại, dài ra hoặc cong)

Sau khi chuẩn đoán được chú chó của bạn đã bị gãy xương chân bạn có thể đưa đến các trạm y tế thú ý để có thể chụp và băng bó để chú chó mèo nhanh liền xương.

Nếu bạn chuẩn đoán được chú chó của mình chỉ bị bong gân và vết bầm thì bạn có thể tự sơ cứu tại nhà bằng phương pháp chườm đá vào chỗ bị bong gân của chú chó

Chú chó bị gãy xương thì việc đâu tiên trước khi sơ cứu thì bạn đeo rọ mõm chó chú cho.Tiếp theo bạn tìm vị trí chú chó bị gãy ở đâu rồi lấy 2 mảnh gỗ nẹp lại và buộc bằng vải sau đó bạn đưa chú chó đến thú ý.Nếu bạn không tự băng bó cho chú chó được thì có thể đưa chú đến trạm y tế để bác sĩ chữa trị.

Sau khi đã thực hiện những bước sơ cứu trên thì bạn cho chú chó nằm yên một chỗ không cho hoạt động nhiều đảm bảo chỗ ở của chú luôn được sạch sẽ.

Quý khách có nhu cầu sử dụng các dịch vụ cho chó con có thể tham khảo các dịch vụ sau:

Bạn có thể bổ sung thêm các loại thực phẩm Canxi,Vitamin A,D cho chó có thể kèm theo phương pháp tắm nắng cho chó vào buổi sáng sơm.Nếu gia đình có điểu kiện có thể đưa chú đi kiểm tra thường xuyên để xem xét tình trạng phục hồi ra sao.Thông thường với các chú chó thì sau 3-4 tuần chó sẽ hết sưng và sau 12 tuần chú chó sẽ liền xương.

Điều trị chó mèo bị gãy xương , gãy chân , rạn xương

chụp x-quang cho chó mèo bị gãy xương

Chụp X-quang chó mèo là phương pháp được sử dụng khi thú cưng bị tổn thương phần xương khớp mà nội soi hay siêu âm không thể làm gì được. Phổ biến nhất hiện nay là chụp x-quang chẩn đoán bệnh loạn sản xương hông ở chó mèo.

Xác định các dấu hiệu, nguyên nhân gây ra loạn sản xương hông, như thoái hóa tủy sống, viêm khuỷu chi sau hay các chứng bệnh thuộc về xương khớp khác.

Chụp X-quang mèo, chó sẽ cho hình ảnh về tim, phổi, mạch máu, xương sườn, xương của cột sống. Từ đó, giúp bạn biết được thú cưng của mình có bị suy tim, phổi sụp, viêm phổi, xương sườn có bị gãy không, có không khí tích tụ trong không gian xung quanh phổi (tràn khí màng phổi) không?

Chụp x-quang cho thấy dịch trong phổi, trong không gian xung quanh phổi, mở rộng tim, viêm phổi, ung thư, bệnh khí thũng…

Kỹ thuật chụp x-quang cho hình ảnh sắc nét hiển thị trên máy vi tính, hỗ trợ chẩn đoán lâm sàng chính xác hiệu quả. Kết quả cho phép lưu trữ lâu dài, tiết kiệm thời gian, thuận tiện…

Sau khi có kết quả x-quang các chấn thương của chó mèo thì các bác sĩ thú y sẽ có thể đưa ra kết luận chính xác về việc điều trị xương khớp cho chó mèo cụ thể là nẹp xương hay đóng đinh hay bó bột cho chó mèo

bó bột xương cho chó mèo bị gãy xương

Trong các trường hợp chó mèo bị gãy xương chân do tai nạn, nếu trong trường hợp nhẹ xương chỉ bị gãy mà vẫn còn dính với nhau, không lìa hẳn thì bác sĩ thú y sẽ dùng phương pháp bó xương chó mèo để cố định xương.

phẫu thuật xương chó mèo

Đây là một dịch vụ can thiệp đến các vấn đề về xương của thú cưng do bị tai nạn té ngã. Hiện tại dịch vụ phẫu thuật xương chó mèo đã có những bước phát triển và áp dụng công nghệ rất hiện đại không thua gì trên con người.

Phẫu thuật mổ xương chó mèo (hay còn gọi là phẫu thuật mổ xuyên đinh) áp dụng khi chó mèo bị tai nạn gãy xương chân. Nếu chỉ bị gãy và xương còn dính với nhau thì chỉ đơn giản là bó bột nẹp cố định xương, Nhưng nếu bị nặng xương gãy lìa hẳn, thì lúc này bác sĩ thú y phải dùng cây đinh dài xuyên qua giữa 2 lớp xương bị gãy để giữ nối xương lại.

Tương tự như phẫu thuật mổ xuyên đinh. Dịch vụ ghép xương chó mèo được áp dụng khi xương bị gãy lìa hoặc bị mất một phần xương nên không thể bó bột nên chó mèo cần đến dụng cụ nối ghép xương để hỗ trợ cố định xương bị gãy.

Đóng đinh nẹp xương cho chó mèo

Với các ca bị gãy xương nặng thì việc đóng định cố định lại xương đã không còn xa lạ nó sẽ giúp cố định lại xương và giúp cho chó mèo nhà bạn nhanh lành vết gãy nhất có thể.

Chăm sóc chó mèo khi bị gãy chân, gãy xương, rạn xương

Bạn hãy để chó nằm yên 1 chỗ, tránh không cho chúng hoạt động nhiều

Đảm bảo chỗ nằm luôn được sạch sẽ, thoáng mát

Tăng cường bổ sung các dưỡng chất cần thiết như: Canxi, vitamin A,D… Hãy cho chú chó của bạn đi tắm nắng sớm

Cho chúng đi kiểm tra thường xuyên nếu điều kiện cho phép

Thông thường, chỉ từ 3-4 tuần là xương có thể cử động nhẹ. 12-16 tuần xương sẽ liền thành 1 khối, chó sẽ cơ bản hồi phục hoàn toàn. Bạn cần lưu ý là chó con sẽ liền xương nhanh hơn chó to, nên hãy chú ý đến chúng nhiều hơn.

Hạn chế cho chó vui chơi ngoài đường vì rất dễ xảy ra tai nạn

Khi cho chó đi vệ sinh hoặc đi dạo, hãy luôn đeo dây xích cho chúng. Đặc biệt là với những chú chó hiếu động

Bổ sung các dưỡng chất cần thiết để ngăn ngừa loãng xương

Để phục vụ hơn 100.000 khách hàng mỗi năm, ngay từ những ngày đầu làm dịch vụ bệnh viện thú y tại nhà đã đầu tư những trang bị hiện đại và một đội ngũ bác sĩ thú y giàu kinh nghiệm, chuyên nghiệp. Khách hàng sẽ được cập nhật mọi thông tin, được sử dụng dịch vụ thú y chất lượng cao với chi phí hợp lý, được những bác sĩ giỏi khám chữa cho thú cưng của mình.

Cấu Tạo Bộ Xương Động Vật

Xương đầu

Xương đầu gồm: Xương sọ và xương mặt.

– Xương sọ

Có 6 xương hợp thành gồm: xương trán, đỉnh, chẩm, bướm, sàng và xương thái dương. Các xương này mỏng, dẹp, rỗng ở giữa, liên kết với nhau bằng các khớp bất động tạo thành xoang sọ chứa não. Phía sau khớp với đốt sống cổ số 1 có thể cử động dễ dàng.

– Xương mặt

Gồm 10 xương gồm: xương mũi, xương lệ, xương gò má, xương hàm trên, xương liên hàm, xương khẩu cái, xương lá mía, xương ống cuộn, xương cánh và xương hàm dưới. các xương đều mỏng, dẹp, đa dạng, tạo thành các hốc (hốc mắt, hốc mũi, hốc miệng…) và các xoang. Các xương dính liền tạo thành khối. Xương hàm dưới khớp với xương thái dương của hộp sọ, tạo thành khớp toàn động duy nhất ở vùng đầu.

Xương sống

– Xương sống do rất nhiều đốt sống nối tiếp nhau tạo thành. Đốt sống cổ số 1 khớp với lồi cầu xương chẩm tạo khớp toàn động làm cho đầu có thể quay về mọi phía. Phía sau các đốt sống thoái hóa dần tạo thành đuôi. Cột sống chia thành 5 vùng: Cổ, lưng, hông, khum, đuôi.

Xương sườn

– Xương sườn là xương dài cong, mỏng, dẹp có hai đầu (trên, dưới), phần giữa là thân.

+ Đầu trên: Lồi tròn, khớp với đài khớp của đốt sống lưng cùng số.

+ Đầu dưới: Đầu xương sườn nối tiếp với một đoạn sụn ngắn.

Ở một số xương sườn, đoạn sụn này gắn lên mặt trên xương ức gọi là xương sườn thật. Xương sườn có các đoạn sụn nối liền tạo thành vòng cung sụn sườn (bên phải và bên trái) gọi là xương sườn giả. Ví dụ: Trâu bò có 8 đôi xương sườn thật và 5 đôi xương sườn giả. Ngựa có 8 đôi xương sườn thật, 10 đôi xương sườn giả. Lợn có từ 7 – 9 đôi xương sườn thật, từ 5 – 8 đôi xương sườn giả.

Xương ức

Là xương lẻ hình cái thuyền, mỏng, xốp nắm dưới lồng ngực, làm chỗ tựa cho các sụn sườn. Xương ức có một thân hai đầu, được tạo thành từ các đốt xương ức: bò, ngựa có 7 đốt, lợn có 6 đốt nối với nhau bởi các đĩa sụn.

Đầu trước: Gọi là mỏm khí quản (vì khí quản đi sát mặt trên của đầu trước). Hai bên có hai hố để khớp với đôi xương sườn số 1.

Đầu sau hay mỏm kiếm xương ức: là đốt ức cuối cùng, gần giống 1/2 hình tròn. Sụn này rất mỏng và không cốt hóa thành xương được.

Lồng ngực: được tạo bởi phía trên là các đốt sống ngực, hai bên là các xương sườn, sụn sườn và các cơ liên sườn, dưới là xương ức, phía trước là cửa vào lồng ngực, phía sau là cơ hoành. Xoang ngực chứa tim, phổi, thực quản, khí quản và các mạch máu lớn của tim.Bộ xương bò

Xương tràn, 2. Xương hàm trên, 3. Hố mắt, 4. Sừng, 5. Xương mũi, 6. Xương hàm dưới, 7. Lỗ cằm, 8. Đốt sống vùng cổ, 9. Đốt sống vùng lưng, 10. Đốt sống hông, 11. Xương khum, 12. Đốt sống vùng đuôi, 13. Xương sườn, 13a. Xương sườn, 13b. Xương sườn cuối, 14. Xương ức, 15. Xương bả vai, 16. Xương cánh tay, 17. Xương quay, 18. Xương trụ, 19. Xương cổ tay, 20. Xương bàn, 21. Xương ngón, 22a. Xương cánh chậu. 22b. Xương háng, 22c. Xương ngồi, 23. Xương đùi, 24. Xương bánh chè, 25a. Xương chày, 25b. Xương mác, 26. Xương sên, 27a. Xương gót, 27b. Xương hộp, 28. Xương bàn, 29. Xương ngón.

Bộ xương lợn

1.Xương trán, 2. Xương hàm trên, 3. Hố mắt, 4. Nhánh nằm ngang, 4a. Nhánh thẳng đứng xương hàm dưới, 5. Xương liên hàm, 6. Cột sống cổ, 7. Cột sống lưng, 8. Cột sống hông, 9. Xương khum, 10. Cột sống đuôi, 11. Xương sườn, 12. Xương ức, 13. Xương bả vai, 14. Xương cánh tay, 15. Xương quay, 16. Xương trụ, 17. Xương cổ tay, 18. Xương bàn tay, 19. Xương ngón, 20a. Xương cánh chậu, 20b. Xương háng, 20c. Xương ngồi, 21. Xương cổ chân, 22. Xương bánh chè, 23. Xương chày, 24. Xương mác, 25. Xương cổ chân, 26. Xương bàn chân, 27. Xương ngón chân.

Đốt sống lưng

1.Mỏm gai, 2. Cung, 3. Mỏm ngang, 4. Mỏm vú, 5. Mỏm khớp trước, 6. Diện lõm trước đốt sống, 7. Đầu trước thân, 8. Lỗ sống, 9. Lỗ ngang, 10. Diện lõm sau đốt sống, 11. Đầu sau thân, 12. Mào dưới thân.

Xương sườn trái và xương ức phải

A.Xương sườn: 1. Đầu trên, 2. Diện khớp với mỏm ngang đốt sống, 3. Củ sườn, 4. Cổ sườn, 5. Cạnh trước , 6. Thân, 7. Đầu dưới, 8. Sụn sườn, 9. Cạnh sau, 10. Rảnh sườn.

B.Xương ức: 1. Mỏm khí quản, 2. Thân, 3. Hố khớp với sụn sườn, 4. Mỏm kiếm, 5. sụn sườn. Xương khum A: Mặt bên ; B: Mặt dưới.

A.Mặt bên: 1. mỏm gai, 2. Mỏm khớp trước, 3. Mặt khớp, 4. Cánh khum, 5. Mỏm dưới cánh khung, 6. Mặt bên, 7. Lỗ trên khum, 8. Lỗ dưới khum, 9. Đỉnh khum, 10. Mẻ sau xương khum.

B.Mặt dưới: 1. Mặt khớp, 2. Mỏm dưới đáy khum, 3. Cánh khum, 4. Lỗ dưới khum, 5. Đường ngang (nối giữa các đốt khum), 6. Mặt chậu, 7. Mẻ sau xương khum, 8. Đỉnh khum.

Xương chi

Xương chi trước:

Gồm các xương bả vai, xương cánh tay, xương cẳng tay, xương cổ tay (xương cườm), xương bàn tay và xương ngón tay.

– Xương bả vai: gia súc có hai xương bả vai không khớp với xương sống. Nó được đính vào hai bên lồng ngực nhờ các cơ và tổ chức liên kết. Xương bả vai mỏng, dẹp, hình tam giác, đầu to ở trên gắn với mảnh sụn, đầu nhỏ ở dưới khớp với xương cánh tay. Xương nằm chéo từ trên xuống dưới, từ sau ra trước.

– Xương cánh tay: là xương ống (xương dài) có một thân và hai đầu.

+ Đầu trên to, phía trước nhô cao, phía sau lồi tròn gọi là lồi cầu để khớp với hố lõm đầu dưới của xương bả vai.

+ Đầu dưới nhỏ hơn, phía trước có các lồi tròn, khớp với đầu trên xương quay

+ Thân trơn nhẵn, mặt ngoài có mấu lồi là u delta dưới đó là rãnh xoắn.

Xương cánh tay nằm từ trên xuống dưới, từ trước ra sau.

– Xương cẳng tay: gồm hai xương là xương quay và xương trụ.

+ Xương quay: tròn hơn nằm ở phía trước, là xương dài, hơi cong, lồi vềphía trước.

+ Xương trụ: nhỏ, nằm dính sát vào mặt sau cạnh ngoài xương quay, đầu trên có mỏm khuỷu, phần dưới thon nhỏ kéo dài đến nửa xương quay ở ngựa, hay đến đầu dưới xương quay ở trâu, bò lợn.

– Xương cổ tay (xương cườm): gồm hai xương nhỏ, nằm giữa xương cẳng tay và xương bàn tay.

Ở lợn, ngựa: hàng trên có bốn xương từ ngoài vào trong là xương đậu, xương tháp, xương bán nguyệt, xương thuyền. Hàng dưới có bốn xương là xương mấu, xương cả, xương thê và xương thang.

– Xương bàn tay: số lượng xương khác nhau tùy thuộc vào từng loại gia súc.

Ngựa có 1 xương bàn chính, một xương bàn phụ rất nhỏ. Trâu bò có hai xương bàn chính dính làm một chỉ ngăn cách bởi một rãnh dọc ở mặt trước, có 1 – 2 xương bàn phụ. Lợn có bốn xương bàn.

– Xương ngón: ngựa có một ngón gồm ba đốt là đốt cầu, đốt quán và đốt móng. Trâu bò có hai ngón mỗi ngón có ba đốt và hai ngón phụ có 1 – 2 đốt.

Lợn có hai ngón chính mỗi ngón có ba đốt, có hai ngón phụ mỗi ngón có hai đốt.

Xương chi sau

Xương chi sau gồm xương chậu, xương đùi, xương cẳng chân, xương cổ chân, xương bàn chân và xương ngón chân.

– Xương chậu: gia súc có hai xương chậu là xương chậu phải và xương chậu trái khớp với nhau ở phía dưới bởi khớp bán động hang và bán động ngồi. Ở phía trên xương chậu khớp với xương sống vùng khum và cùng xương khum tạo thành xoang chậu chứa các cơ quan tiết niệu, sinh dục. Mỗi xương chậu gồm ba xương tạo thành:

+ Xương cánh chậu: nằm ở phía trước và phía trên xương háng và xương ngồi. Phía trước hình tam giác hơi lõm là nơi bám của khối cơ mông. Góc trong giáp với xương khum là góc mông, góc ngoài là góc hông góp ph ần tạo ra hai lõm hông hình tam giác ở trên và sau bụng con vật.

Phía sau xương cánh chậu cùng với xương háng, xương ngồi hợp thành một hố lõm sâu gọi là ổ cối để khớp với chỏm khớp ở đầu trên xương đùi.

+ Xương háng: hai xương háng nhỏ nằm dưới xương cánh chậu, khớp nhau bởi khớp bán động háng, hai bên khớp có hai lỗ bịt.

+ Xương ngồi: hai xương ngồi nằm sau xương háng, khớp nhau bởi khớp bán động ngồi ở giữa, từ đó kéo dài về phía sau thành hai u ngồi.

– Xương đùi: là xương dài nằm ở dưới xương chậu, chéo từ trên xuống dưới, từ sau ra trước, có một thân và hai đầu.

+ Đầu trên to, phía ngoài nhô cao là mẩu động lớn, phía trong là chỏm khớp hình lồi cầu, khớp vào ổ cối của xương chậu.

+ Đầu dưới nhỏ, phía trước có ròng rọc để khớp với xương bánh chè. Phía sau là hai lồi cầu để khớp với xương chày.

+ Thân tròn, trơn, trên to, dưới nhỏ.

– Xương cẳng chân:

+ Xương chày: là xương dài, hình khối lăng trụ, có một thân và hai đầu. Đầu trên to, chính giữa nhô cao là gai chày ngăn cách gò ngoài và gò trong. Đầu dưới nhỏ có hai rãnh song song để khớp với xương sen của cổ chân. Thân có ba mặt, hai mặt bên ở phía trước gặp nhau ở mào chày bị uốn cong. Mặt sau giống hình chữ nhật nho lên các đường xoắn để cơ kheo bám vào.

+ Xương mác: là xương nhỏ giống cái trâm cài đầu, nằm ở phía ngoài đầu trên xương chày. Ở trâu bò xương mác thoái hóa chỉ là một mấu nhỏ ngắn, ở lợn kéo dài bằng xương chày.

+ Xương bánh chè: là một xương nhỏ mỏng, chắc, đặc, hình thoi nằm chèn giữa xương đùi và xương chày, còn gọi là nắp đầu gối.

– Xương cổ chân: tương ứng với cổ tay ở chi trước, gồm 2 – 3 hàng và 5 – 7 xương. Xương chậu mặt bên

1.Hố cánh chậu, 2. Thân xương cánh chậu, 3. Cạnh trước, 4. Cạnh bên, 5. Mẻ hông lớn, 6. Góc hông, 7. Góc mông, 8. Nhánh trước khớp ổ cuối thuộc xương háng, 9. Nhánh sau, 10. Xương ngồi, 11. Mẻ hông nhỏ, 12. U ngồi, 13. Thân xương ngồi, 14. Nhánh xương ngồi (tạo thành khớp bán động ngồi), 15. Mào trên ổ cối, 16. Ổ cối, 17. Rãnh bám gân, 18. Lỗ bịt.