Bạn đang xem bài viết Thờ Ơ Với Môn Học Đại Cương được cập nhật mới nhất trên website Nhatngukohi.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Phải chăng SV đang thờ ơ với những môn học được xem là nền móng này?
Phóng toTân sinh viên một trường ĐH tại chúng tôi trong một buổi học đại cương sáng 20-9 -Ảnh: Như Hùng
Để tìm hiểu thực tế việc học đại cương của SV, chúng tôi đã thực hiện cuộc khảo sát trên 400 SV ở một số trường ĐH.
SV than, giảng viên cũng than!
“Những môn học đại cương được ví như nền móng của một ngôi nhà. Móng có chắc thì nhà mới vững được. Các doanh nghiệp ngày nay khi tuyển người thường ưu tiên kiến thức nền tốt để đào tạo thêm”
PGS.TS Đỗ Văn Dũng (phó hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm kỹ thuật TP.HCM)
Với câu hỏi “Nếu được lựa chọn, bạn có học các môn đại cương trong chương trình học hay không?”, có đến 38-54% trả lời “không” (xem bảng). Nhiều bạn cho rằng những môn học này nhàm chán, tốn thời gian, công sức, tiền bạc và “chỉ học cho qua”.
Một SV viết: “Những môn học đại cương rất ít phục vụ các môn chuyên ngành và ngành nghề sau này. Giảng viên dạy rất chán. Bài giảng phải chạy đua với lượng kiến thức rất lớn nên khó tiếp thu, học xong không còn nhớ gì hết”. Nhiều SV xác nhận ở lớp hầu như SV ít học mà chỉ… ngủ.
Trong bảng khảo sát, nhiều SV đề xuất bỏ bớt những môn học không cần thiết để tập trung thời gian cho chuyên ngành. Bên cạnh đó, nhiều bạn khác cũng cho rằng cần tạo hứng thú, sinh động, tăng làm việc nhóm, thuyết trình, giảm đọc – chép… ở những môn học đại cương. Một điểm đáng chú ý trong bảng khảo sát: khoảng 80% SV nhận định việc học đại cương là cần thiết nhưng nếu được lựa chọn sẽ không học.
Một số giảng viên phụ trách những môn học đại cương thừa nhận khối lượng kiến thức của các môn học này quá nhiều. “Có môn học 90 tiết, sau đó gộp cùng một môn học nữa nhưng số tiết vẫn giữ nguyên. Với lượng kiến thức khổng lồ như vậy, giảng viên “chạy” cho hết chương trình cũng đã khó chứ chưa nói đến việc tạo hứng thú cho lớp học” – một giảng viên ta thán.
TS Nguyễn Công Hoan – giảng viên một trường ĐH – thừa nhận phần lớn những môn đại cương lớp rất đông do dồn nhiều lớp, đến chuyên ngành mới tách lớp ra. “Có lớp vài trăm SV. SV kêu ca học khô khan, nhàm chán nhưng lớp quá đông như vậy muốn buổi học sinh động bằng cách làm việc nhóm, thuyết trình… không phải là chuyện đơn giản” – TS Hoan nói.
Dồn vào góc hẹp tri thức
GS Bành Tiến Long – nguyên thứ trưởng Bộ GD-ĐT – nhận định vai trò của người thầy rất quan trọng khi làm cho SV thấy được lợi ích của việc học những môn đại cương và hậu quả nếu không học. Theo GS Long: “Môn học đại cương cũng phải có ngoại khóa, có giao lưu xã hội, tổ chức tham quan, ngành kỹ thuật phải có thực nghiệm, bài giảng có video minh họa. Thầy phải đặt ra các bài tập tình huống và gợi mở cho SV tìm hiểu, giải đáp. Nói cách khác, thầy là người thiết kế cái khung, còn SV là người thi công chi tiết bài giảng trên khung đó. Như thế giờ học mới sinh động được”.
Hướng đến “giáo dục tổng quát”
GS Phụ phân tích: “Giai đoạn đại cương trong giáo dục ĐH ở nước ta, SV sẽ học hai nhóm kiến thức. Thứ nhất là nhóm khoa học cơ bản. Đây là những môn cơ sở để học lên chuyên môn. SV thường nghĩ chỉ học sâu chuyên môn là tốt chứ không quan tâm những môn học này. Thế nhưng, học kết cấu một cái cầu phải cần kiến thức của môn sức bền vật liệu và cơ kết cấu. Hai môn này phải dựa vào môn toán. Do đó, những môn cơ bản hết sức cần thiết. SV có vững chuyên môn hay không thì tùy thuộc vào những môn này. Thứ hai là những môn như chủ nghĩa xã hội khoa học, triết học… Một số môn học ở nhóm này bị chính trị hóa. SV kêu ca nhất ở chương trình đại cương là ở những môn học này”. GS Phạm Phụ cho rằng giáo dục ĐH nên hướng đến giáo dục tổng quát trước khi vào chuyên ngành để nâng cao chất lượng đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Một số kết quả khảo sát
Đại Cương Nấm Y Học
Đại cương nấm y học
Khái niệm.
Theo phân loại của Whittaker (1969), thế giới sinh vật gồm năm giới là Planta, Animalia, Fungi, Protista và Monera.
Nấm (fungi) là những sinh vật có nhân và thành tế bào thực sự, dị dưỡng (heterotrophic), sinh sản bằng bào tử.
Tế bào có nhân thật: những tế bào có màng tế bào bao quanh nhân và những bào quan như ti thể, bộ máy Golgi, lưới nội tương (endoplasmic reticulum), lysosomes… Đặc điểm này phân biệt nấm với những sinh vật tiền nhân (prokaryotic) như vi khuẩn, Chlamydia… tế bào không có màng nhân và những bào quan như trên.
Dị dưỡng: nấm không có diệp lục tố (chlorophyll) do đó không có khả năng tự dưỡng (autotrophic) bằng cách quang hợp (photosynthetic) như thực vật và tảo (algae). Nấm là những sinh vật dị dưỡng hấp thụ những chất hữu cơ bằng cách hoại sinh trên những vật hữu cơ chết hoặc kí sinh trên những sinh vật sống khác. Chúng có hệ thống men phong phú để lấy các chất dinh dưỡng từ môi trường.
Nấm có thành tế bào do đó không có khả năng vận động như động vật.
Nấm phân bố rộng rãi trong tự nhiên, trong không khí, đất, nước, trên động, thực vật sống hoặc chết. Ước tính có khoảng trên 1.000.000 loài nấm, hầu hết sống hoại sinh trong đất, một số ít có khả năng kí sinh gây bệnh cho người và động vật. Hiện nay đã phát hiện khoảng 400 loài gây bệnh cho người.
Nấm học là môn học về nấm, có nhiều chuyên ngành như nấm đại cương
(nghiên cứu đặc điểm hình thể, sinh lí, sinh thái, nguồn gốc, phân loại nấm…),
nấm công nghệ (nghiên cứu sử dụng nấm trong công nghiệp sản xuất thực phẩm, đồ uống…).
Nấm y học nghiên cứu những nấm kí sinh gây bệnh cho người… Lịch sử nấm y học bắt đầu năm 1839 khi Schoenlein L. phát hiện nguyên nhân gây bệnh nấm tóc do nấm. Từ đó đến nay đã có nhiều tác giả đã nghiên cứu về nấm và các bệnh do nấm gây ra và con người ngày càng có hiểu biết nhiều hơn về nấm, các bệnh do nấm gây ra và các biện pháp phòng chống. Nấm không chỉ gây bệnh ở da, lông, tóc, móng mà còn có thể gây bệnh ở hầu hết các cơ quan nội tạng.
Đặc điểm cấu tạo và hình thể nấm.
Cấu tạo:
Cấu tạo chung của tế bào nấm tương tự như tế bào động vật, có màng tế bào, bào tương, các bào quan, nhân; ngoài ra nấm còn có thành tế bào.
Thành tế bào (Cell wall): cấu tạo nhiều lớp, 90% là polysaccharide gồm các loại hexose và hexosamine polymers như chitin, glucan, mannan…, 10% là các protein và glycoprotein. Thành tế bào đảm bảo hình dạng, độ cứng, sự vững chắc và bảo vệ tế bào nấm chống lại áp lực thẩm thấu. Thành tế bào có tính kháng nguyên.
Hình 17.1: Sơ đồ cấu tạo tế bào nấm.
Màng tế bào: cấu tạo hai lớp, thành phần có phospholipids và sterols (ergosterol, zymosterol). Màng có chức năng bảo vệ bào tương, điều hoà hoạt động bài tiết và hấp thu những chất hoà tan, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổng hợp bao, thành tế bào.
Bào quan: có ti thể (mitochrondia), không bào (vacuole), bọng (vesicle), microbodies, ribosome, tinh thể glycogen, bộ máy Golgi… được hệ thống lưới nội tương (endoplasmic reticulum) và vi ống (microtubule) nâng đỡ và sắp xếp.
Nhân: tế bào nấm có thể có một hoặc nhiều nhân. Nhân có một hạt nhân (nucleus), màng nhân có hai lớp. Nhân tế bào nấm giống nhân của sinh vật bậc cao. – Bao (capsule): có một vài loại nấm có bao, cấu tạo polysaccharide, chức năng bảo vệ nấm chống hoạt động thực bào, là yếu tố độc lực của nấm. Trong y học nấm có bao là Cryptococcus neoformans.
Hình thể:
Nấm có hai bộ phận chính là bộ phận sinh dưỡng và bộ phận sinh sản.
Bộ phận sinh dưỡng: nấm gây bệnh thường có kích thước nhỏ, phải quan sát dưới kính hiển vi và được gọi là vi nấm. Dựa và hình thể, vi nấm được chia làm hai nhóm chính là nấm men và nấm sợi.
Nấm men (yeast): cấu tạo đơn bào, tròn hoặc bầu dục, kích thước 3 – 15 µm. Nhiều tác giả cho rằng: nấm có dạng tế bào men tròn để thích nghi với điều kiện môi trường lỏng, áp suất thẩm thấu cao (đặc biệt là trong môi trường nhiều đường như hoa quả…). Khuẩn lạc nấm men thường có dạng nhầy nhớt giống khuẩn lạc của vi khuẩn.
Nấm sợi (filamentous hay mould): gồm những sợ tơ nấm có cấu tạo đa bào. Dạng sợi giúp cho nấm dễ dàng xâm nhập sâu vào các ngóc ngách, nấm Candida khi kí sinh cũng tạo những sợi giả để xâm nhập sâu vào tổ chức.
Cấu tạo sợi nấm: có hai loại sợi là sợi không vách ngăn (non-septate hay coenocytic hyphae) thường có đường kính lớn (trên 5 m) và sợi có vách ngăn (septate hyphae) có đường kính nhỏ (2 – 4 m). Vách ngăn không phân cách hoàn toàn mà có những lỗ nhỏ để các chất trong sợi nấm lưu thông được, đôi khi lỗ đủ lớn để nhân đi qua.
Có loại có màu nâu để bảo vệ nấm khỏi tia cực tím của ánh sáng mặt trời
(những nấm có màu được gọi là dematiteous).
Những nấm không vách ngăn thuộc ngành Zygomycota, kém tiến hoá hơn vì khi một đoạn sợi nấm bị tổn thương sẽ dẫn đến tổn thương toàn bộ sợi nấm. Những nấm có vách ngăn thuộc ngành Basidiomycota và Ascomycota, khi một đoạn sợi nấm bị tổn thương, những lỗ ở vách ngăn ngăn cách các khoang có thể bị nút lại bảo vệ được phần còn lại của sợi nấm.
Hình 17.2: Sợi nấm.
A – Sợi nấm không vách ngăn, B – Sợi nấm có vách ngăn, C – Vách ngăn.
Những sợi nấm đan kết chằng chịt với nhau tạo thành thể tơ nấm (mycelium), khi thể tơ nấm phát triển trên môi trường tự nhiên hoặc nhân tạo tạo thành khuẩn lạc, khuẩn lạc nấm sợi thường như bông, len hoặc dạng sợi, một số nấm có thể sinh sắc tố.
Hình thể bộ phận sinh sản: nấm sinh nhiều loại bào tử có hình thể và kích thước khác nhau. Hình thể, kích thước và cách sắp xếp bào tử của nấm có giá trị lớn trong định loại nấm.
Đặc điểm sinh học.
Phần lớn nấm có thể phát triển vô hạn trong điều kiện thích hợp như có đủ nguồn dinh dưỡng, nhiệt độ, độ ẩm, pH… thích hợp. Phần lớn nấm sống ái khí, một số kị khí tùy ngộ (facultatively anaerobic). Đa số nấm sống hoại sinh trong đất, trên thực vật sống hoặc chết… chỉ có một số ít kí sinh. Phần lớn nấm y học kí sinh tùy ngộ, một vài loại nấm kí sinh bắt buộc như Rhinosporidium seeberi, Loboa loi… không phát triển được ở ngoài cơ thể sống.
Dinh dưỡng:
Nấm là những sinh vật dị dưỡng, đòi hỏi chất hữu cơ sẵn có từ môi trường. Nấm có một hệ thống men rất đặc biệt giúp cho chúng có thể phân hủy những hợp chất hữu cơ rất chắc như keratin (da, lông, tóc, móng, sừng…), cellulose, lignin…, nấm tiết các men ra môi trường, phân giải các chất thành những hợp chất đơn giản để hấp thu.
Nấm có thể phát triển được trên những môi trường đơn giản gồm nguồn cacbonhydrad, nguồn nitơ vô cơ và hữu cơ, muối khoáng (P, K, Mg, Fe, Zn, S, Mn…), không sử dụng được nguồn nitơ không khí. Môi trường Sabouraud là môi trường hay dùng nhất trong nuôi cấy nấm y học chỉ có glucose, peptone, thạch, nước.
Phần lớn nấm không cần vitamin, nhưng một số cần thiamine, biotin… (nấm da, Cryptococcus) để phát triển.
Đặc điểm sinh thái:
Nhiệt độ:
Phần lớn nấm đẳng nhiệt (mesophilic), phát triển trong dải nhiệt độ 15 – 350C, đa số nấm phát triển mạnh trong điều kiện nhiệt độ cao, nhiệt độ tối ưu trong nuôi cấy nấm là 25 – 350C. Một vài loại nấm ưa nhiệt như Aspergillus fumigatus, Rhizopus microsporus… có thể phát triển ở nhiệt độ 45 – 500C. Những nấm chỉ gây bệnh ở da và tổ chức dưới da hiếm khi phát triển ở nhiệt độ trên 370C.
Độ ẩm:
Nấm phát triển mạnh khi điều kiện độ ẩm không khí cao, hầu hết các nấm sợi không phát triển khi độ ẩm không khí dưới 70%, ngược lại nấm phát triển mạnh khi độ ẩm không khí trên 70%. Bệnh nấm da thường gặp ở bẹn, mông, thắt lưng là những vùng bí hơi, độ ẩm tăng. Các nước nhiệt đới có nhiệt độ và độ ẩm cao nên bệnh nấm phát triển mạnh hơn các nước ôn đới.
pH:
Nấm có thể phát triển trong dải pH rộng (1- 9) nhưng nấm ưa axit. Ở môi trường trung tính hoặc kiềm nhẹ vi khuẩn phát triển mạnh hơn nấm, ở pH axit nấm cạnh tranh có hiệu quả với vi khuẩn, ở pH 4 – 6 nấm có thể loại trừ hẳn vi khuẩn ra khỏi môi trường nuôi cấy. Môi trường nuôi cấy nấm có pH 6 – 6,8.
Tốc độ phát triển:
Nấm thường mọc chậm hơn vi khuẩn (tốc độ phân chia trung bình của vi khuẩn là 20 phút/lần, nấm trung bình 4 giờ/lần). Khi nuôi cấy phân lập nấm cần đảm bảo vô khuẩn, môi trường nuôi cấy nấm thường cho thêm kháng sinh để ức chế vi khuẩn.
Nấm hoại sinh thường phát triển nhanh hơn nấm kí sinh. Môi trường nuôi cấy phân lập nấm y học thường có actidion (cycloheximid) là một loại kháng sinh kháng nấm hoại sinh. Một số nấm gây bệnh nhạy cảm actidion như Cryptococcus neoformans, Aspergillus… cần phải được nuôi cấy trong môi trường không có actidion.
Hiện tượng biến hình (pleomorphism):
Một số nấm có hiện tượng khi ở môi trường nuôi cấy để lâu ngày, cấy chuyển nhiều lần hoặc được cấy vào môi trường không thích hợp sẽ có hiện tượng biến hình. Khuẩn lạc chỉ còn là một đám sợi tơ màu trắng, không có bào tử, không thể định loại được. Những nấm hay biến hình là Epidermophyton floccosum, Microsporum canis…
Hiện tượng nhị thể (lưỡng hình, lưỡng dạng, dimorphism):
Một số nấm khi kí sinh ở vật chủ hoặc nuôi cấy trên môi trường giàu chất dinh dưỡng, ở 370C nấm có dạng men, khi hoại sinh hoặc cấy ở môi trường nghèo chất dinh dưỡng ở nhiệt độ phòng nấm có dạng sợi. Khả năng chuyển dạng của nấm vai trò quan trọng trong độc lực của nấm.
Ví dụ: Histoplasma capsulatum, Penicillium marneffei, Sporothrix schenckii, Blastomyces dermatitidis, Paracoccidioides braziliensis, Coccidioides immitis…
Sinh sản:
Nấm sinh sản bằng bào tử, có bào tử hữu tính và bào tử vô tính.
Sinh sản hữu tính: tạo ra các bào tử hữu tính như bào tử túi (ascospore), bào tử tiếp hợp (zygospore), bào tử đảm (basidiospore).
Sinh sản vô tính: phân chia gián phân của tế bào mẹ tạo ra những bào tử, đây là phương thức sinh sản chính để duy trì và phát tán nhiều loại nấm.
Nấm sợi: có nhiều hình thức sinh bào tử vô tính:
Sinh bào tử tự do trong nang tạo ra nang bào tử (nấm Zygomycota). Chuyển từ một đoạn sợi thành bào tử: bào tử đốt, bào tử áo, bào tử phấn.
Bào tử đốt (arthrospore): những sợi nấm đứt ở vách ngăn, tách rời ra một đoạn ở đỉnh (sợi nấm ngừng phát triển, hình thành nhiều vách ngăn gần nhau, các phần này phồng lên và tách rời nhau) hoặc sợi nấm hình thành nhiều vách ngăn, các tế bào xen kẽ phồng lên, thành dầy.
Bào tử áo (bào tử bao dày – chlamydospore): khi môi trường hết chất dinh dưỡng, một số ngăn gom các chất dinh dưỡng, vách phồng to và dày lên tạo thành bào tử bao dày. Bào tử bao dày có sức chịu đựng cao, khi sợi tơ nấm chết bào tử bao dày vẫn tiếp tục sống, gặp điều kiện thuận lợi lại phát triển thành sợi nấm. Bào tử bao dày có thể ở giữa hoặc đỉnh sợi nấm.
Hình 17.3: Một số loại bào tử vô tính của nấm sợi.
1.Bào tử bao dày;
2.Bào tử đốt.
3.Bào tử phấn.
Bào tử phấn (aleurispore): một phần sợi nấm ở đỉnh phồng lên hình thành các vách ngăn nội tại và ngăn cách với phần còn lại của sợi nấm, dần dần tách khỏi sợi nấm.
Sinh bào tử từ những sợi nấm đặc biệt (bào đài): bào đài là một nhánh sợi nấm đặc biệt nhô lên không khí (aerial hyphae) giữ trách nhiệm sinh bào tử.
Hình 17.4: Sinh bào tử từ bào đài.
1.Penicillium, 2. Aspergillus.
Nấm men: phần lớn sinh sản bằng cách nẩy búp (budding) tạo ra bào tử chồi (blastospore), một số loại nấm men sinh sản bằng cách phân đôi (fission).
Hình 17.5: Nấm men nẩy búp
A- Nấm men
B- Nấm men bắt đầu nẩy búp
C, D- Búp lớn
E- Búp tách khỏi tế bào mẹ.
Nấm men thường tạo bào tử chồi ở một vị trí, một vài loại sinh từ nhiều vị trí (Paracoccidioides brasiliensis). Đa số tách khỏi tế bào mẹ khi tế bào con còn nhỏ hơn tế bào mẹ, một vài loại nấm (Candida albicans) có thể tạo sợi giả khi tế bào con vẫn gắn với tế bào mẹ và tiếp tục sinh sản.
Những nấm men sinh sản bằng phân đôi có thể theo chiều ngang (Penicillium marneffei) hoặc nhiều hướng tạo ra thể nứt (sclerotic bodies).
Nấm men Candida cũng có thể tạo bào tử áo.
Vai trò của nấm.
Trong tự nhiên:
Nấm có vai trò quan trọng trong sinh quyển, đóng kín chu trình chuyển hoá vật chất của tự nhiên. Trong tự nhiên, thực vật là những sinh vật tổng hợp chất hữu cơ, động vật ăn thực vật và chuyển hoá thành những dạng khác, nấm là những sinh vật phân huỷ những hợp chất đó. Nấm có hệ thống men phong phú, có khả năng phân hủy hầu hết các hợp chất hữu cơ trong tự nhiên (trừ những hợp chất như PVC do con người tạo ra).
Một số enzym của nấm được dùng trong công nghiệp sản xuất rượu, bia, bánh mỳ, pho mát…, một số nấm còn được dùng làm thực phẩm.
Do tác dụng phân hủy mạnh, một số enzym của nấm có thể phân hủy giấy, quần áo, đồ len, dạ, đồ da… Khi phát triển nấm sản sinh ra các axit làm hỏng các dụng cụ bằng thủy tinh, kim loại…
Nấm có thể gây bệnh cho vật nuôi, cây trồng làm giảm năng suất. Nấm phát triển trên nông sản, thức ăn làm hỏng thực phẩm, có thể sinh độc tố ngấm vào thực phẩm gây hại cho người và động vật.
Trong y học:
Rất nhiều loại kháng sinh (penicilin, streptomycin…) được tách chiết từ nấm.
Một số nấm khi ăn phải có thể gây độc: Mycetismus choleriformis, M.nervosus, M.cerebralis, M.gastrointestinalis, M.sanguinaneous… – Một số nấm gây mốc thực phẩm có thể sinh độc tố ngấm vào thực phẩm, người ăn vào độc tố tích tụ lâu ngày có thể gây hại cho cơ thể. Aflatoxin do Aspergillus flavus sinh ra có thể gây ung thư gan thực nghiệm, Penicillium islandium sinh ra islanditoxin có thể gây khối u ở gan…
Có rất nhiều loại nấm có thể kí sinh gây bệnh cho người.
Khả năng gây bệnh của nấm.
Trừ một vài loại nấm như nấm da (dermatophytes) bắt buộc phải kí sinh để có thể duy trì và phát triển, phần lớn nấm gây bệnh có tính chất ngẫu nhiên. – Đường nhiễm nấm: qua đường hô hấp (Aspergillus, Cryptococcus, Histoplasma…), qua da (nấm da, nấm gây u nấm, Sporothrix…), niêm mạc (nấm Candida có thể lây nhiễm qua sinh hoạt tình dục), nấm có thể xâm nhập qua phẫu thuật, bỏng (Aspergillus) hoặc qua catheter (Candida, Malassezia). Nấm có thể có nguồn gốc nội sinh như Candida albicans.
Nấm có thể gây bệnh nhờ hệ thống enzym (nấm da), cơ chế cơ học (nấm tóc), độc tố (Aspergillus sinh độc tố aflatoxin có thể gây ung thư gan thực nghiệm), phản ứng viêm (Cryptococcus), miễn dịch dị ứng (da: nấm da, Candida, niêm mạc: Aspergillus…).
Một số loại nấm có hướng tính đặc biệt với một số tổ chức: nấm da với các tổ chức keratin hoá, nấm gây u nấm thường ở tổ chức dưới da, nấm Sporothrix thường gây bệnh ở hệ bạch huyết, nấm Aspergillus thường gây bệnh ở phổi, nấm Cryptococcus thường gây bệnh ở hệ thần kinh.
Mối quan hệ giữa nấm và vật chủ: cơ thể có nhiều hình thức bảo vệ đặc hiệu và không đặc hiệu chống nấm.
Các cơ chế bảo vệ không đặc hiệu: sự toàn vẹn của da, niêm mạc, hệ các vi sinh vật hội sinh, các tế bào thực bào…, ngoài ra còn có sự tham gia của các immunoglobulins và bổ thể đóng vai trò opsonin. Những cơ chế này có vai trò quan trọng trong bảo vệ cơ thể chống lại những bệnh do nấm cơ hội, những nấm có độc lực yếu.
Cơ chế bảo vệ đặc hiệu: cả đáp ứng tế bào và dịch thể đều tham gia trong đó đáp ứng tế bào có vai trò quan trọng. Các tế bào lympho T mẫn cảm sản sinh lymphokines hoạt hoá đại thực bào (macrophages), các đại thực bào được hoạt hoá đóng vai trò quan trọng trong đề kháng chống nấm của cơ thể.
Nấm thường chỉ gây bệnh khi cơ thể có rối loạn đáp ứng miễn dịch. Hình thức và mức độ rối loạn đáp ứng miễn dịch quyết định sự nhậy cảm và mức độ nặng của bệnh. Hình thức đáp ứng miễn dịch cũng quyết định đáp ứng của tổ chức, đôi khi tham gia vào sinh bệnh học của bệnh.
Những yếu tố nguy cơ mắc bệnh nấm:
Sinh lí: trẻ sơ sinh, người già dễ nhiễm Candida ở miệng, người mang răng giả cũng có tỉ lệ nhiễm Candida ở miệng cao. Phụ nữ có thai 3 tháng cuối bị Candida âm đạo cao gấp 3 – 4 lần phụ nữ bình thường. Một số nhóm người vì lí do nghề nghiệp hoặc cách sống dễ bị nhiễm một só bệnh nấm như u nấm, histoplasmose châu Phi, blastomycose…
Bệnh lí: tại chỗ hoặc toàn thân.
Tại chỗ: tình trạng tăng ngậm nước, giập nát mô… ở những người bán cá, rửa bát làm tăng tỉ lệ nấm móng do Candida. Những tổn thương có sẵn ở phổi: Aspergillus.
Toàn thân: bệnh lí làm giảm sức đề kháng như AIDS, bệnh máu ác tính, ung thư…, các rối loạn nội tiết: đái đường…
Ngoại sinh: điều trị thuốc kháng sinh, thuốc ức chế miễn dịch kéo dài, đặt catheter mở đường cho Candida, Malassezia xâm nhập mạch máu, phẫu thuật bụng tạo điều kiện thuận lợi cho C.albicans phát triển, bỏng nặng dễ bị biến chứng do Aspergillus. Các nhiễm trùng bệnh viện: Candida, Aspergillus là những nguyên nhân hàng đầu trong số các bệnh nhiễm trùng bệnh viện do nấm.
Phân loại bệnh nấm: các bệnh nấm thường được phân thành 3 nhóm chính:
Bệnh nấm ngoại biên (superficial mycoses): lang ben, nấm đen lòng bàn tay, viêm ống tai ngoài do nấm, viêm giác mạc do nấm.
Nấm da (dermatophytosis).
Bệnh nấm nội tạng (bệnh nấm hệ thống – systemic mycoses): các bệnh do nấm men, bệnh do nấm sợi và bệnh do nấm lưỡng dạng.
Chẩn đoán bệnh nấm:
Chẩn đoán dựa và triệu chứng lâm sàng, dịch tễ và xét nghiệm.
Lâm sàng:
Triệu chứng lâm sàng: bệnh nấm thường tiến triển chậm, mãn tính. Các bệnh nấm nội tạng triệu chứng thường không điển hình, trong đa số trường hợp triệu chứng lâm sàng chỉ có tính chất gợi ý.
Dịch tễ:
Bệnh nhân có thể có yếu tố dịch tễ như có tiếp xúc bệnh nhân nấm da.
Yếu tố nghề nghiệp: nhiễm Aspergillus hay gặp ở công nhân nhà máy lông vũ…, nhiễm Sporothrix schenckii thường ở người làm vườn…
Một số bệnh nấm lưu hành có tính chất địa phương: bệnh do nấm Penicillium marneffei chủ yếu ở Đông Nam Á.
Xét nghiệm:
Xét nghiệm trực tiếp: có giá trị chẩn đoán định hướng đôi khi quyết định (khi phát hiện bao của Cryptococcus neoformans), có giá trị hơn nuôi cấy trong chẩn đoán bệnh do Candida… Xét nghiệm trực tiếp tỉ lệ dương tính thường cao hơn nuôi cấy, kết quả nhanh (vài phút đến vài giờ) rất quan trọng trong những trường hợp bệnh nặng, nguy hiểm tính mạng bệnh nhân cần chẩn đoán sớm và điều trị ngay như viêm màng não do C.neoformans.
Hydroxit kali (KOH): KOH có tác dụng làm sạch tổ chức, các mảnh vụn tế bào (quá trình này chỉ cần 5 – 10 phút hoặc hơ qua lửa để diễn ra nhanh hơn) nhưng không ảnh hưởng đến tế bào nấm. Nhược điểm: đôi khi KOH phản ứng với mủ, đờm, vẩy da tạo ra những hình ảnh giống nấm, có thể tạo tinh thể. Đôi khi nhuộm cùng mực Parker nhưng không phát hiện được sắc tố của nấm.
Calcofluor white: calcofluor white là một chất làm trắng được dùng trong công nghiệp dệt, giấy, chúng gắn với β 1 – 3 hoặc β 1 – 4 polysaccharide (cellulose, chitin) có trong thành tế bào nấm và phát huỳnh quang.
Nhuộm mực tàu: chủ yếu để phát hiện bao của C.neoformans.
Giemsa: chủ yếu phát hiện Histoplasma capsulatum trong máu hoặc tủy xương, nấm có màu xanh tím, có quầng sáng bao quanh.
Giải phẫu bệnh lí: phương pháp nhuộm hematoxylin thường chỉ nhìn rõ phản ứng của tổ chức, rất khó phát hiện được nấm, các phương pháp nhuộm PAS (Periodic Acid Schiff), Grocott’s methenamine silver (GMS) rất tốt để phát hiện nấm trong tổ chức.
Nuôi cấy: có nhiều loại môi trường nuôi cấy nấm, thông dùng nhất là môi trường Sabouraud, có thể môi trường Sabouraud có kháng sinh và actidion, thường nuôi cấy ở nhiệt độ phòng. Để phát hiện dạng kí sinh của nấm lưỡng dạng thường dùng môi trường BHI (Brain Heart Infusion) nuôi cấy ở 370C. Tuy nhiên có loại nấm cho đến hiện nay vẫn chưa nuôi cấy được như Rhinosporidium seeberi. Nuôi cấy thường cần thời gian do nấm mọc chậm tuy nhiên cho phép định loại nấm.
Chẩn đoán huyết thanh: có thể có kết quả nhanh mà không cần các kĩ thuật xâm nhập.
Phát hiện kháng thể: thường không áp dụng chẩn đoán các bệnh do Candida, Aspergillus, Cryptococcus vì test cũng dương tính khi nấm chỉ phát triển đơn thuần, không gây bệnh hoặc âm tính nếu tình trạng suy giảm miễn dịch nặng.
Phát hiện kháng nguyên: thường phát hiện các kháng nguyên thành tế bào như mannan, galactomannan, polysaccharide bao, protein hoà tan.
Gây nhiễm động vật: thường gây nhiễm chuột nhắt trắng, có giá trị trong chẩn đoán một số bệnh như bệnh do C.neoformans,… Kết quả chậm nhưng chính xác.
Sinh học phân tử: có nhiều nghiên cứu ứng dụng sinh học phân tử trong phát hiện DNA nhân, ti thể hoặc RNA của nấm như kĩ thuật lai, PCR (polymerase chain reaction). Các kĩ thuật này có độ nhậy và độ đặc hiệu cao, cho kết quả nhanh hơn nuôi cấy, có thể theo dõi đáp ứng điều trị với bệnh do Candida, Cryptcococcus, Aspergillus… Mặc dù vậy vẫn có dương tính giả
(không phân biệt được nấm hội sinh hay kí sinh gây bệnh, nguy cơ ô nhiễm từ môi trường) và âm tính giả (độ nhậy thấp khi phát hiện các gen có một bản sao). Ngoài ra, kĩ thuật sinh học phân tử đòi hỏi trang thiết bị tốn kém và con người được đào tạo.
Phát hiện các sản phẩm chuyển hoá của nấm: một hướng mới trong chẩn đóan các bệnh nấm là định lượng các sản phẩm chuyển hóa đặc hiệu của nấm như D-arabinitol trong chẩn đóan bệnh do Candida, manitol trong chẩn đoán bệnh do Aspergillus và Cryptococcus…
Điều trị.
Hiện nay đã có nhiều loại thuốc có tác dụng chống nấm được sử dụng trong điều trị. Thuốc có thể có nguồn gốc thảo mộc hay hoá dược tổng hợp.
Các thuốc có nguồn gốc thảo mộc của Việt Nam: lá trầu không, tỏi, hạt gấc, dịch chiết hạt mướp đắng, bạch hạc, cặn tinh dầu chàm, chút chít… Các thuốc có nguồn gốc hoá dược tổng hợp:
Các thuốc nhóm polyene: trong công thức phân tử của polyene có các liên kết đôi kị nước gắn kết với ergosterol, tạo ra các kênh ở màng tế bào, làm tăng tính thấm màng tế bào. Một số thuốc thông dụng nhất là amphotericin B, nystatin, natamycin.
Amphotericin B (fungizon): tách chiết từ Streptomyces nodosus. Được coi là một thuốc cơ bản điều trị nấm nội tạng nhưng rất độc đặc biệt với thận, gần đây đã có dạng bọc thuốc giữa hai lớp phospholipid hoặc tạo phức với lipid để làm giảm độc tính.
Nystatin: tách chiết từ Streptomyces noursei. Thuốc chỉ tác dụng với nấm men, khi dùng tại chỗ thuốc dung nạp tốt, không dùng điều trị nấm hệ thống do thuốc không tan trong nước, không hấp thu vào tổ chức và rất độc khi tiêm truyền.
Griseofulvin: do Penicillium griseofulvum sinh ra. Thuốc ức chế quá trình phân chia của tế bào nấm, làm rối loạn cấu trúc và chức năng của vi ống (microtubule), chỉ có tác dụng với nấm da.
Flucytosine (5 – fluorocytosine): là một pyrimidine có fluor, tan trong nước.
Cơ chế tác dụng: nấm nhậy cảm thuốc sẽ chuyển hóa 5 – fluorocytosine thành 5-fluouracil, sau đó thành 5-fluorouadylic axit, chất này gắn với RNA hoặc chuyển hóa thành 5 – fluorodeoxyuradylic acid monophosphate có tác dụng ức chế thymidylate synthetase mạnh, men này có vai trò quan trọng trong sinh tổng hợp DNA.
Phổ tác dụng: các loại nấm men như Candida, Cryptococcus, thuốc có tác dụng hiệp đồng với amphotericin B. Khả năng sinh kháng thuốc cao nên thuốc ít dùng đơn độc.
Thuốc nhóm azole: bao gồm biazole (imidazole, chứa 2 nitơ như ketoconazole, miconazole, clotrimazole, econazole…) và triazole (chứa 3 nitơ: itraconazole, fluconazole, voriconazole).
Cơ chế tác dụng: thuốc gắn với phần heme của cytochrome P450, làm rối loạn các chức năng oxy hóa, ức chế 1,4α demethylase gây rối loạn tổng hợp ergosterol dẫn đến tổn thương màng tế bào.
Tác dụng không mong muốn: do cơ chế tác dụng với cytochrome P450, thuốc dễ có tương tác với các thuốc khác, ngoài ra thuốc cũng làm giảm sản xuất hormon steroid trong cơ thể (hormon thượng thận, sinh dục), những thuốc triazole ít gây giảm hormon hơn biazole tuy nhiên thuốc đắt hơn.
Thuốc nhóm allylamin: thuốc ức chế squalene epoxidase, một enzym quan trọng trong sinh tổng hợp ergosterol. Thuốc có tác dụng diệt nấm, phân bố ở cả da, tóc, móng. Độ dung nạp và độ an toàn của thuốc cao. Thường sử dụng terbinafin và naftifin để điều trị nấm da.
Các chất ức chế tổng hợp glucan (echinocandines): thuốc ức chế beta – (1, 3) – D- glucan synthase là enzyme tham gia tổng hợp glucan, một thành phần của thành tế bào nấm. Hiện có caspofungin đã được cho phép sử dụng. Thuốc có phổ tác dụng rộng, cả nấm men (trừ C.neoformans), nấm sợi và nấm lưỡng dạng. Thuốc được sử dụng điều trị những trường hợp aspergillosis kháng thuốc hoặc candidiasis hệ thống.
Phòng chống bệnh nấm.
Giảm nguồn bệnh: chẩn đoán sớm, điều trị triệt để bệnh nhân, động vật bị bệnh…
Giảm nguồn ô nhiễm nấm trong tự nhiên:
Tích cực vệ sinh môi trường, vệ sinh nơi ở, nơi làm việc.
Tiệt khuẩn đồ dùng của bệnh nhân (chăn màn, quần áo, vải trải giường…), xử lí chất thải của bệnh nhân theo những quy định chung.
Bảo vệ người lành:
Thực hiện nếp sống vệ sinh đề phòng nấm xâm nhập cơ thể như vệ sinh da, vệ sinh ăn uống. Hạn chế tiếp xúc với động vật, đất, nước, cây cối… Có biện pháp phòng hộ như đi găng tay, ủng bảo vệ, đeo khẩu trang…
Giảm các yếu tố nguy cơ: điều trị tốt các bệnh nội khoa, có chỉ định và theo dõi chặt chẽ khi dùng thuốc kháng sinh, corticoid, thuốc ức chế miễn dịch. Phòng nhiễm HIV/AIDS…
Tăng cường dinh dưỡng, vitamin nâng cao sức đề kháng của cơ thể,
Có thể dùng thuốc phòng nấm trong một số trường hợp: trẻ sơ sinh, người dùng thuốc ức chế miễn dịch…
Phân loại nấm.
Phân loại sinh học: ngành nấm có vai trò y học chủ yếu nằm trong bốn lớp:
Lớp nấm Tiếp hợp (Zygomycetes) sinh bào tử tiếp hợp.
Lớp nấm Túi (Ascomycetes) sinh bào tử túi.
Lớp nấm Đảm (Basidiomycetes) sinh bào tử đảm.
Lớp nấm Bất toàn (Deuteromycetes hay “Fungi Imperfecti”) bao gồm những nấm không có bào tử hữu tính hoặc giai đoạn vô tính của nấm Đảm hoặc nấm Túi.
Phân loại theo nguồn nhiễm nấm:
Một số nấm đã thích ứng hoàn toàn với đời sống kí sinh, đa số nấm gây bệnh có nguồn gốc hoại sinh. Nguồn nhiễm rất khác nhau, con người có thể nhiễm nấm từ đất, nước, không khí, thực vật, từ động vật hoặc người bị bệnh, từ những người nhiễm nấm không triệu chứng. Theo nguồn nhiễm có thể phân thành các nhóm sau:
Nấm ngoại hoại sinh (exosprophytes): rất nhiều loài nấm sống trong đất, trên thực vật có thể kí sinh gây bệnh cho người như nấm da ưa đất, nấm nhị thể, tác nhân gây u nấm (Madurella mycetomatis…). Một số loại nấm kí sinh tùy ngộ như Aspergillus fumigatus, A.flavus, Fusarium, Scopulariopsis…, những nấm có màu như Alternaria, Cladosporium, Exophiala…
Nấm thượng hoại sinh (episaprophytes): một số nấm có thể hoại sinh trên da người bình thường. Ví dụ: Malassezia furfur (tỉ lệ người mang M.furfur có thể tới 100%).
Nấm nội hoại sinh: những nấm sống ở các xoang tự nhiên của người, gây bệnh khi có điều kiện thuận lợi. Ví dụ: Candida albicans, Candida glabrata.
Nấm nội – ngoại hoại sinh (endo – exosaprophytes): là những nấm có khả năng sống hoại sinh ở ngoại cảnh và có thể sống trong các xoang tự nhiên của người và động vật. Ví dụ: Cryptococcus neoformans có thể sống trong diều chim bồ câu hoặc trong phân chim. Một số Candida (C.tropicalis, C.pseudotropicalis, C.krusei…) là những nấm hoại sinh tùy ngộ ở người, động vật và có thể phân lập được ở ngoại cảnh (trong đất, hoa quả, ngũ cốc…).
Nấm kí sinh: một số nấm thích nghi với đời sống hoàn toàn kí sinh ở người như Microporum langeronii, Trichophyton violaceum, T.soudanense, T.rubrum…, lây truyền giữa người và người. Những nấm này khi có mặt trên đất cũng dựa vào nguồn dinh dưỡng có nguồn gốc từ người (vẩy da, lông, tóc… rụng).
Đề Cương Ôn Tập Môn Xã Hội Học
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN XÃ HỘI HỌC LỚP ĐH4QĐ 1. Trình bày khái niệm, chức năng cơ bản của xã hội học + Khái niệm: Xã hội học là khoa học nghiên cứu một cách có hệ thống quá trình hình thành, phát triển, cấu trúc, mối quan hệ tương tác và các hành vi chung của các cá nhân, nhóm, tổ chức xã hội cùng các cách tiếp cận tới những phương diện khác nhau của đời sống xã hội. + Chức năng cơ bản của xã hội học: a) Chức năng nhận thức Xã hội học trang bị những tri thức khoa học về sự phát triển của xã hội theo những quy luật vốn có của nó, chỉ ra nguồn gốc, phương thức diễn biến và cơ chế của các quá trình phát triển xã hội, của các mối quan hệ giữa con người và xã hội. b) Chức năng thực tiễn Chức năng này hướng tới sự cải thiện xã hội và cuộc sống của nhân loại. Thực tiễn chính là cơ sở của lý luận; còn lý luận phục vụ thực tiễn. Chức năng thực tiễn chú trọng nắm bắt, giải quyết đúng đắn, kịp thời những vấn đề xã hội nảy sinh để cải thiện tình hình xã hội. c) Chức năng tư tưởng: Chức năng này biểu hiện ở vai trò cung cấp nội dung khoa học của hệ tư tưởng, là cơ sở cho nhân sinh quan xã hội đúng đắn. Chức năng tư tưởng của xã hội học thể hiện trên hai khía cạnh – Trang bị cho nhà xã hội học thế giới nhãn quan khoa học của chủ nghĩa Mác -Lênin, bồi dưỡng lòng yêu nước, yêu độc lập, tự do, về vai trò, trách nhiệm của công dân trong sự nghiệp phát triển xã hội. – Giúp nhà xã hội học hình thành và phát triển phương pháp tư duy, nghiên cứu khoa học và năng lực phê phán các quan điểm phi mác xít, việc lợi dụng xã hội học để phủ định vai tr ò của học thuyết Mác Lênin; chống lại những tư tưởng sai lầm, bảo thủ, lạc hậu trong nhận thức lý luận và trong hoạt động thực tiễn.
2. Hành động xã hội là gì? Cho ví dụ? Phân biệt hành động xã hội và hành vi? + Khái niệm: Hành động xã hội là một hành vi mà chủ thể gán cho một ý nghĩa chủ quan nhất định. Như vậy, hành động bao giờ cũng có động cơ nhất định. Nhưng không phải hành động nào cũng là hành động xã hội (hành động vật lý bản năng, hành động giống nhau của các cá nhân trong một đám đông, hành động bắt chước thuần tuý…). Tuy nhiên, rất khó phân biệt chính xác hành động xã hội và hành động không xã hội vì con người không phải lúc nào cũng hoạt động một cách có ý thức, có ý chí. Hành động xã hội là một bộ phận cấu thành hoạt động sống của cá nhân. + Ví dụ: Sự đụng độ của hai người đi xe máy trên đường phố. Trường hợp này ta phải xét hai khả năng: 1. Thứ nhất: hai người đi vô tình quyệt vào nhau, sự va quêt mang tính cơ học không phải là hành động xã hội. 2. Thứ hai: Hai người đã cố tránh nhưng vẫn xẩy ra va quêt gọi là hành động xã hội. Sau khi va quyệt hai người tìm cách giải quyết hậu quả kể cả đánh chửi nhau cũng gọi là hành động xã hội. + Sự khác biệt giữa hành vi xã hội và hành động xã hội:
– Hành vi xuất phát từ mô hình kích thích – phản ứng. Còn hành động diễn ra theo nguyên tắc phản ứng có suy nghĩ. – Hành vi không có động cơ. Còn hành động luôn được xác định bởi những động cơ đằng sau nó, người ta thực hiện hành động khi muốn một cái gì đó, để đạt một cái gì đó. – Khi hành động, các chủ thể có khả năng giám sát hành động của chính họ một cách có phản ứng. Còn hành vi thì không. – Hành động luôn được quy chiếu theo những giá trị, chuẩn mực của xã hội như đúng – sai, tốt xấu….Hành vi thì không có tính chuẩn mực.
– Cảm xúc – trung lập: thoả mãn các nhu cầu trực tiếp cấp bách hoặc những nhu cầu nào đó xa vời nhưng quan trọng. Ví dụ: SV đang ôn thi thì có người chết đuối: cứu người hay tiếp tục ôn thi? – Đặc thù – phân tán: định hướng đến các đặc thù hay những đặc điểm chung của hoàn cảnh. – Định hướng cá nhân – định hướng nhóm: chủ thể hành động vì lợi ích của bản thân
4. Thế nào là thiết chế xã hội? Trình bày những đặc trưng và chức năng cơ bản của thiết chế xã hội? + Khái niệm: Thiết chế xã hội là hình thức cộng đồng và hình thức tổ chức của con người trong quá trình tiến hành các hoạt động xã hội. Thiết chế xã hội chính là các ràng buộc được mọi cá nhân, nhóm cộng đồng và toàn thể xã hội chấp nhận và tuân thủ. + Đặc trưng: – Các thiết chế xã hội bao gồm các giá trị cơ bản mà các giá trị đó được các thành viên thừa nhận. – Các quan hệ được thiết lập trong thiết chế đó tỏ ra khá bền vững, các khuôn mẫu hành vi được hình thành trong thiết chế trở thành một phần truyền thống văn hoá của một cộng đồng xã hội. – Mỗi một thiết chế xã hội có tính độc lập tương đối của nó và có tầm bao quát rộng đến mức các hoạt động của nó chiếm một vị trí trung tâm trong xã hội. – Mục tiêu của một thiết chế được đại đa số các thành viên của xã hội thừa nhận, cho dù thành viên đó có tham gia trực tiếp hay không vào trong thiết chế. – Mặc dù các thiết chế xã hội có tính độc lập tương đối, nhưng giữa chúng có mối quan hệ tương tác với nhau hết sức chặt chẽ. Khi có sự thay đổi về cơ cấu tổ chức hay khuôn mẫu hành vi của một thiết chế nào đó, có thể kéo theo sự thay đổi của các thiết chế các lĩnh vực khác. + Chức năng: a) Quy định hành vi: Các thiết chế cơ bản cho các cá nhân hoạt động với các kiểu hành vi xã hội được chấp nhận trong nhiều trạng thái xã hội khác nhau. b) Định hướng vai trò xã hội của cá nhân: Các cá nhân có thể lựa chọn vai trò nào đó đối với mình là phù hợp, có thể biết được sự mong đợi của vai trò trước khi cá nhân đó thể hiện. c) Đem lại sự ổn định và kiên định cho các thành viên của xã hội: Để các cá nhân hướng nhận thức của mình tới các thiết chế xã hội nhằm củng cố nhận thức và thống nhất hành động của mọi thành viên trong xã hội. d) Điều chỉnh và kiểm soát hành vi của các cá nhân, các nhóm xã hội để chúng phù hợp với mong đợi của xã hội Các nhà xã hội học phân biệt hai loại chức năng riêng biệt của thiết chế (xét theo hình thức biểu hiện): chức năng công khai là những phần bộc lộ ra bên ngoài để cho các thành viên trong nhóm hoặc xã hội nhận hội biết một cách rõ ràng và chức năng tiềm ẩn là chức năng không bộc lộ ra bên ngoài một cách rõ ràng, do đó, các thành viên trong xã hội hoặc trong nhóm không nhận thấy được. Giữa các thiết chế đôi khi xảy ra sự di chu yển chức năng. Sự di chuyển này xảy ra khi xuất hiện một trong hai hoặc cả hai điều kiện sau đây: -Thiết chế không đáp ứng được nhu cầu; -Các thiết chế đều có khả năng đáp ứng được nhu cầu, nhưng một trong số đó nổi trội hơn, có khả năng đáp ứng ở mức độ cao hơn so với các thiết chế khác.
5. Bất bình đẳng xã hội là gì? Cho ví dụ? Hãy đưa ra các ý kiến của anh (chị) để góp phần giảm bớt bất bình đẳng xã hội? Phân tích cơ sở tạo nên bất bình đẳng xã hội? + Khái niệm: Bất bình đẳng xã hội là sự không ngang bằng nhau về các cơ hội hoặc lợi ích đối với các cá nhân khác nhau trong một nhóm hoặc nhiều nhóm trong xã hội. + Ví dụ: Về bất bình đẳng giới (tư tưởng trọng nam khinh nữ). Phụ nữ rất ít khi được bình đẳng với nam giới về quyền lực: các nhà lãnh đạo chính trị luôn là nam giới, thủ lĩnh các dòng họ luôn là nam giới…Trong gia đình, đa số các bà vợ luôn phải đối mặt với nạn bạo hành, đàn ông có quyền chi phối vợ mình, phụ nữ ít có quyền đối với đời sống hôn nhân, người vợ luôn phải thể hiện sự tôn kính đối với chồng… + Các ý kiến để góp phần giảm bớt bất bình đẳng: sửa đổi chương trình và phương pháp giảng dạy để giúp các em học sinh có ý thức yêu chuộng sự công bằng. Và áp dụng trong các công việc cụ thể, như: biết xếp hàng chờ đến lượt mình, biết dừng đèn đỏ, có quy định phạt đối với những em vi phạm tính công bằng, như chen ngang, vượt đèn đỏ… + Cơ sở tạo nên bất bình đẳng xã hội: là sự đa dạng và khác nhau giữa các xã hội và nền văn hoá, gắn liền với những đặc điểm của giai cấp xã hội, giới tính, chủng tộc, tôn giáo, lãnh thổ…Tuy nhiên, theo các nhà Xã hội học, người ta có thể quy về 3 nhóm cơ sở chủ yếu: – Những cơ hội trong cuộc sống: là những thuận lợi vật chất có thể cải thiện chất lượng cuộc sống như của cải, tài sản, thu nhập, công việc, lợi ích chăm sóc sức khoẻ hay đảm bảo an ninh xã hội. – Sự khác nhau về địa vị xã hội: bất bình đẳng về địa vị xã hội do thành viên của các nhóm xã hội tạo nên và thừa nhận chúng. Nó có thể là bất cứ cái gì mà một nhóm xã hội cho là ưu việt và được các nhóm xã hội khác thừa nhận. Tuy nhiên, địa vị xã hội chỉ có thể được giữ vững bởi những nhóm nắm giữ địa vị đó và các nhóm xã hội khác tự giác thừa nhận sự ưu việt đó. – Sự khác nhau về ảnh hưởng chính trị: Bất bình đẳng do ảnh hưởng chính trị là khả năng của một nhóm xã hội thống trị những nhóm khác hay có ảnh hưởng mạnh mẽ trong việc ra quyết định và thu được lợi từ các quyết định đó.
6. Khái niệm phân tầng xã hội? Nguyên nhân của phân tầng xã hội? + Khái niệm : Phân tầng xã hội là trạng thái phân chia xã hội ra thành các tầng xã hội khác nhau về địa vị kinh tế, địa vị chính trị, uy tín xã hội, cũng như một số khác biệt về trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú, phong cách sinh hoạt, cách ứng xử trong giao tiếp và thị hiếu…. + Nguyên nhân: là kết quả của phân công lao động xã hội và sự bất bình đẳng mang tính cơ cấu của hầu hết mọi chế độ xã hội. Phân tầng xã hội và bất bình đẳng xã hội có mối quan hệ mật thiết. Bất bình đẳng là nguyên nhân, phân tầng xã hội là kết quả. Sự không ngang nhau về mọi lĩnh vực giữa các cá nhân trong xã hội dẫn đến cơ hội và lợi ích của các cá nhân là không như nhau, từ đó dẫn đến việc các cá nhân hay các nhóm xã hội có cùng chung lợi ích sẽ tập hợp lại thành một nhóm. Nhiều nhóm có cơ hội và lợi ích khác nhau ra đời. Có nhóm lợi ích và cơ hội nhiều, có nhóm thì ít, từ đó dẫn đến phân tầng xã hội.
7. Trình bày phân tầng hợp thức và không hợp thức? + Phân tầng xã hội hợp thức là sự phân tầng dựa trên sự khác biệt một cách tự nhiên về năng lực (thể chất, trí tuệ), về điều kiện, cơ may cũng như sự phân công lao động căn cứ vào năng
lực của các cá nhân và các nhóm xã hội. Sự phân tầng này thực chất là sự vận hành xã hội theo nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Chính vì vậy đây là sự phân tầng tích cực, cần thiết đối với toàn thể xã hội. Nó tạo động lực thúc đẩy xã hội đi lên, tạo nên chuẩn mực cho sự đánh giá xã hội và sự tự đánh giá của các cá nhân theo đúng vị thế, vai trò của mình.Vì vậy, đây là một xã hội trật tự, ổn định và phát triển. + Phân tầng xã hội không hợp thức là sự phân tầng không dựa trên sự khác biệt tự nhiên của các cá nhân, cũng không dựa trên sự khác nhau về tài đức và sự cống hiến của mỗi người cho xã hội mà dựa trên những hành vi bất chính để có quyền lực….Vì vậy, phân tầng xã hội không hợp thức tạo nên sự bất công xã hội, kìm hãm sự phát triển xã hội. Nó là nguyên nhân tích tụ mầm mống của sự bất bình và xung đột xã hội, tạo nên những mâu thuẫn xã hội, thậm chí, có thể tạo nên những đối kháng xã hội làm rối loạn và phá vỡ trật tự xã hội. Do đó, cần kiểm soát, ngăn chặn, đẩy lùi sự ảnh hưởng của phân tầng xã hội không hợp thức.
8. Thế nào là biến đổi xã hội? Trình bày những đặc điểm và điều kiện của biến đổi xã hội? + Khái niệm: Là quá trình mà những khuôn mẫu của các hành vi xã hội, quan hệ xã hội, thiết chế xã hội và các hệ thống phân tầng xã hội được thay đổi theo thời gian. + Đặc điểm: – Biến đổi xã hội diễn ra không giống nhau giữa các xã hội: Mỗi xã hội đều biến đổi thông qua thời gian nhưng do điều kiện khác nhau nên các xã hội biến đổi theo những nhịp độ nhanh chậm khác nhau. Biến đổi xã hội ở các xã hội có nền khoa học kỹ thuật phát triển cao sẽ diễn ra nhanh hơn những xã hội có nền khoa học kỹ thuật kém phát triển. Các yếu tố văn hóa của mỗi xã hội cũng có những nhịp độ thay đổi khác nhau tạo nên “sự lệch pha” trong sự thay đổi hay là những “sự chậm chễ văn hóa” (W.F. Ogburn) trong đó thông thường những hiện tượng văn hóa vật chất thường thay đổi nhanh hơn các hiện tượng văn hóa tinh thần. – Biến đổi xã hội khác biệt về thời gian và hậu quả: Có những biến đổi xã hội chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn và không có ảnh hưởng lâu dài, nhưng cũng có những biến đổi xã hội diễn ra trong một thời kỳ dài hàng nghìn năm hay vài thế hệ. Ảnh hưởng của biến đổi xã hội cũng khác nhau tùy thuộc vào tính chất, mức độ, phạm vi của sự biến đổi xã hội đó. Hơn nữa biến đổi xã hội có thể tạo nên ảnh hưởng vừa tích cực hoặc vừa không tích cực. – Biến đổi xã hội vừa có tính kế hoạch vừa có tính phi kế hoạch: Những biến đổi xã hội do con người tạo nên đều xuất phát từ tính tự giác, chủ động của con người, do đó có thể kiểm soát được. Song đồng thời cũng khó kiểm soát ngay chính những biến đổi xã hội do con người tạo ra. + Điều kiện: – Thời gian – Hoàn cảnh xã hội – Nhu cầu của xã hội
+ Các nhân tố thuộc điều kiện tự nhiên: như vị trí địa lý, thổ nhưỡng, sông ngòi, các nguồn tài nguyên, khí hậu, hệ động thực vật… – Thông thường sự ưu đãi của điều kiện tự nhiên, sự giàu có về các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẽ tạo ra nguồn lực dồi dào và động lực trong quá trình biến đổi và phát triển xã hội. – Tuy nhiên, lịch sử phát triển của loài người cũng đã cho thấy một chiều hướng ngược lại là ở các nước có điều kiện tự nhiên thuận lợi thường khai thác một cách kém hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên; trong khi đó các nước có điều kiện tự nhiên hạn chế hơn lại khai thác một cách tối ưu các nguồn tài nguyên thiên nhiên. -Sự thay đổivề môi trường sinh thái, đặc biệt là sự ô nhiễm môi trường và tình trạng mất cân bằng sinh thái cũng là nhân tố ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình biến đổi xã hội. + Nhóm các nhân tố khoa học kỹ thuật và công nghệ Quan điểm của thuyết kỹ trị chủ trương rằng khoa học, kỹ thuật công nghệ phải là yếu tố quyết định của quá trình biến đổi xã hội. Khoa học và công nghệ có tác dụng thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội mới, quá trình đô thị hoá; làm thay đổi nhận thức và quan hệ xã hội. + Nhóm các nhân tố chủ thể xã hội – Chủ thể xã hội là các thực thể xã hội tạo ra các hoạt động xã hội bao gồm cá nhân, nhóm xã hội, cộng đồng, thiết chế xã hội cùng với những quan hệ giữa chúng. – Vai trò của cá nhân trong lịch sử vô cùng to lớn. Những cá nhân vĩ đại có năng lực tập hợp được quần chúng tạo nên sức mạnh lớn lao tác động đến sự biến đổi x ã hội. + Nhóm các nhân tố văn hoá, xã hội * Văn hoá: – Việc hình thành nền văn hoá mới hoàn toàn có thể tạo nên sự biến đổi xã hội. – Sự tiến bộ của tư duy không phải chỉ là khả năng, mà là một tất yếu thúc đẩy sự biến đổi xã hội. * Những cấu trúc xã hội mới: – Thông qua cấu trúc xã hội mới, khoa học và công nghệ mới được nghiên cứu và triển khai mạnh mẽ để rồi đến lượt nó tái tạo cấu trúc xã hội mới ở trình độ cao hơn. – Vai trò của cơ cấu giai cấp, vai trò của giới cũng hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy sự biến đổi xã hội và góp phần tạo thành cấu trúc xã hội mới. * Những xung đột: – Nhiều sự thay đổi được tạo nên bởi những xung đột trong các nhóm xã hội khác nhau đó là những mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn thế hệ, mẫu thuẫn giới, mâu thuẫn dân tộc… – Những mâu thuẫn xã hội đó là từ những bất bình đẳng trong xã hội và việc giải quyết những mâu thuẫn đó sẽ dẫn đến sự biến đổi xã hội. *Sự gia tăng dân số: – Sự thay đổi về quy mô, cơ cấu dân số có thể dẫn đến những biến đổi sâu sắc về văn hoá và xã hội, đồng thời cũng kéo theo sự biến đổi về cấu trúc và tổ chức xã hội. -Việc thay đổi cơ cấu dân số dẫn đến biến đổi tương ứng trong cấu trúc xã hội là tất yếu không thể đảo ngược. *Tư tưởng: Tư tưởng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình biến đổi xã hội (theo học thuyết Mác – Lênin, M.Weber, T.Parsons) Xã hội học hiện đại cần phải nhận thức đ ược sức ỳ nhất định của xã hội luôn gắn liền với tính bảo thủ của hệ tư tưởng cũng nh ư văn hoá.
Cấu Trúc Đề Thi Đại Học Môn Tiếng Anh
Cẩm nang nghề nghiệp
Cách luyện thi môn tiếng Anh hiệu quả
Không nên vừa học tiếng Anh vừa nghe nhạc. Bám sát sách giáo khoa và cấu trúc đề thi tốt nghiệp của Bộ GD-ĐT (có trong quyển “Hướng dẫn ôn tập thi tốt nghiệp THPT”). Lên kế hoạch cụ thể ôn ngữ pháp, các cấu trúc, từ mới, ví dụ như sau:
– Ngữ pháp: định rõ lượng thời gian ôn và làm bài tập cho từng phần ngữ pháp, ví dụ: 2 ngày – ôn lại thời của động từ + làm bài tập; 2 ngày – ôn câu bị động + bài tập; 1 ngày – ôn câu điều kiện + bài tập…
Cấu trúc, từ mới:
Nên chú ý ôn nhiều ở sách lớp 12, mỗi ngày học ít nhất 10 cấu trúc + từ mới, phải viết lại mỗi cấu trúc, từ mới ít nhất 3 lần, đặt câu với mỗi cấu trúc hoặc từ mới đó. (Mách nhỏ: nên dành khoảng 20 phút sau khi ngủ dậy buổi sáng để học thuộc và ôn lại 15 phút trước khi đi ngủ, đảm bảo có hiệu quả!).
Khi học từ mới, phải chắc chắn mình phát âm đúng bằng cách nghe thầy cô đọc trên lớp đọc rồi đọc theo, phiên âm hoặc tra lại từ điển nếu cần ( vì trong bài thi có phần “chọn từ có phần gạch chân phát âm khác với các từ còn lại trong mỗi nhóm”).
Tạo ấn tượng với những quy tắc khó nhớ, ví dụ1: đuôi “ed” có 3 cách phát âm là /id/, /t/ và /d/, ta làm như sau: những đông từ có kết thúc là “đếm tiền” – tức là “d” và “t” thì phát âm là /id/ như “wanted”, “´needed”…; những từ có kết thúc là “phòng không sẵn ghế cho xe SH” – tức là “p, k, ss, gh, ch, x, sh” thì phát âm là /t/ như ” watched”, ” laughed”…, phátâm là /d/ với các từ còn lại.
Ví dụ 2: mạo từ “an” đứng trước những danh từ đếm được số ít bắt đầu bằng “uể oải hát không thành lời” – tức là ” u, e, o, a, i và h câm” như “an orange”, ” an hour”…
Làm các bài tập lớn có cấu trúc giống bài thi tốt nghiệp trong khoảng thời gian 50 phút, sau đó kiểm tra đáp án và đánh dấu vào những câu sai để ôn lại cấu trúc và ngữ pháp đó.
Trên lớp, các bạnchú ý lắng nghe thầy cô chữa bài, phân tích câu để rút ra kỹ năng làm bài. Không nên vừa học tiếng Anh vừa nghe âm nhạc, dù là các bài hát bằng tiếng Anh. Nên nghỉ thư giãn từ 15 phút đến 30 phút giữa các môn ôn thi.
Làm bài thi: Chú ý các câu hỏi có từ “EXCEPT” hoặc “NOT” . Làm bài thi với tinh thần bình tĩnh, tự tin
Đảm bảo hiểu rõ yêu cầu đầu bài.
Đọc lướt bài thi từ đầu đến cuối một lượt, câu nào đã chắc kiến thức thì làm luôn, đồng thời đánh dấu để không mất thời gian đọc lại. Chú ý các câu hỏi có từ “EXCEPT” hoặc “NOT” .Dành ít nhất 7 phút xem lại bài, kiểm tra để chắc chắn không bỏ sót câu nào.
Cấu trúc đề thi đại học môn Tiếng Anh 2013
Cập nhật thông tin chi tiết về Thờ Ơ Với Môn Học Đại Cương trên website Nhatngukohi.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!