Xu Hướng 5/2023 # Suy Tuyến Yên Toàn Bộ # Top 6 View | Nhatngukohi.edu.vn

Xu Hướng 5/2023 # Suy Tuyến Yên Toàn Bộ # Top 6 View

Bạn đang xem bài viết Suy Tuyến Yên Toàn Bộ được cập nhật mới nhất trên website Nhatngukohi.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Nồng độ T4 tự do và TSH cần được xác định. Nồng độ của cả hai thường thấp trong suy tuyến yên toàn bộ; một mẫu TSH bình thường với T4 tự do thấp cũng có thể xảy ra. Ngược lại, tăng nồng độ TSH với mức độ T4 tự do thấp chỉ ra một bất thường của tuyến giáp.

Nồng độ cortisol huyết thanh đơn thuần không phải là chỉ số đáng tin cậy về chức năng của trục ACTH – thượng thận, mặc dù mức cortisol huyết thanh vào buổi sáng rất thấp (<3,5 μg / dL trong khoảng thời gian 7:30 đến 9:00 sáng) gần như chắc chắn cho thấy sự thiếu hụt cortisol. Một trong những thử nghiệm kích thích nên được thực hiện. Test kích thích ACTH ngắn là một test kích thích cortisol an toàn và ít cần làm các xét nghiệm chuyên sâu về thiếu hụt cortisol hơn so với test dung nạp insulin. Trong khi thực hiện test kích thích ACTH ngắn, dùng ACTH 250 mcg tổng hợp tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm bắp (test liều chuẩn) hoặc 1 mcg tiêm tĩnh mạch (test liều thấp) và mức cortisol máu được đo ngay trước và sau 30 và 60 phút sau khi dùng ACTH tổng hợp. Cortisol sẽ tăng đáng kể; đỉnh cortíol < 20 μg / dL là bất thường. Tuy nhiên, test kích thích ACTH ngắn là bất thường trong thiếu hụt cortisol thứ phát chỉ khi xét nghiệm được thực hiện ít nhất 2-4 tuần sau khi xuất hiện sự thiếu hụt; trước thời điểm này, các tuyến thượng thận chưa bị teo và vẫn đáp ứng với ACTH ngoại sinh.

Cả test kích thích ACTH ngắn và test dung nạp insulin đơn thuần sẽ phân biệt giữa bệnh suy tuyến thượng thận tiên phát (bệnh Addison) và suy thượng thận thứ phát (suy tuyến yên). Các xét nghiệm làm rõ sự khác biệt này và để đánh giá trục dưới đồi- tuyến yên- thượng thận được mô tả dưới bệnh Addison.

Test kích thích hormon bài tiết corticotropin (CRH) được thực hiện để phân biệt giữa các rối loạn nguyên phát, thứ phát (tuyến yên), và tam phát (dưới đồi) gây suy thượng thận. CRH 1 mcg / kg được tiêm tĩnh mạch nhanh. Nồng độ ACTH và cortisol huyết thanh được đo tại thời điểm 15 phút trước, sau đó là lúc mẫu nền và 15, 30, 60, 90 và 120 phút sau khi tiêm. Tác dụng ngoại ý bao gồm giữ nước tạm thời, mùi vị kim loại trong miệng, và hạ huyết áp nhẹ thoáng qua.

Nồng độ Prolactin thường được đo thường quy hormon này thường tăng lên đến 5 lần giá trị bình thường khi có một khối u tuyến yên lớn, thậm chí nếu u không sản xuất prolactin. Khối u chèn ép cuống tuyến yên, ngăn dopamine xuống tuyến yên, chất ức chế sản xuất và giải phóng prolactin từ tuyến yên. Bệnh nhân có tăng prolactin máu như thế thường có suy các hormon sinh dục và biểu hiện chứng suy sinh dục.

Việc kiểm tra thiếu hụt GH ở người lớn không được khuyến cáo trừ khi điều trị GH được dự tính (ví dụ như giảm năng lượng không giải thích được và chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân suy tuyến yên, trong khi các hoóc môn khác đã được thay thế hoàn toàn). Thiếu GH bị nghi ngờ nếu có thiếu hụt ≥ 2 hormon khác của tuyến yên. Vì mức GH thay đổi theo thời gian trong ngày và các yếu tố khác và khó giải thích, nồng độ yếu tố tăng trưởng giống insulin 1 (IGF-1), phản ánh nồng độ GH, được sử dụng; mức thấp gợi ý thiếu hụt GH, nhưng mức bình thường không loại trừ chẩn đoán. Một test kích thích giải phóng hormon GH (xem Thiếu hormone tăng trưởng ở trẻ em : Chẩn đoán) có thể cần thiết.

Mặc dù sự hữu ích của test kích thích chức năng tuyến yên sử dụng các hormon kích thích vẫn được thiết lập, nếu xét nghiệm được chọn, hiệu quả nhất để đánh giá nhiều hormon đồng thời. Hormon kích thích tăng trưởng (1 mcg / kg), CRH (1 mcg / kg), TRH (200 mcg) và GnRH (100 mcg) được cho kết hợp với nhau trong khoảng từ 15 đến 30 giây. Glucose, cortisol, GH, TSH, prolactin, LH, FSH, và ACTH được đo trong khoảng thời gian thường xuyên cho 180 phút tiếp theo. Đáp ứng thông thường tương tự như những đáp ứng đã được mô tả trước đó cho từng thử nghiệm riêng lẻ.

Cấu Tạo Tuyến Yên Và Các Hoocmôn Của Tuyến Yên

Tuyến yên là một tuyến nhỏ nằm ở mặt dưới đại não (nên còn gọi là tuyến mấu não dưới) trên xương yên (nên gọi là tuyến yên). Ở người có kích thước trung bình 1 cm x 1,5 cm x 0,5 cm, nặng 5 gam. Ở động vật khối lượng này thay đổi tuỳ loài và theo mùa. Ở người và gia súc trong thơì gian có chửa tuyến nở to ra.Tuyến yên có 3 thuỳ là thuỳ trước, thuỳ giữa và thuỳ sau. Thuỳ trước là thuỳ tuyến, gồm 3 loại tế bào tuyến :Tế bào ái toan chiếm 40%.Tế bào ái kiềm chiếm 10%. Tế bào không bắt màu chiếm 50%. Thuỳ giữa gồm những tổ chức gian chất. Thuỳ sau là thuỳ thần kinh.

1. Thần kinh và mạch máu chi phối tuyến yên

a. Thần kinh chi phối tuyến yên xuất phát từ 3 nguồn

– Sợi thần kinh giao cảm từ bó thần kinh giao cảm cổ. Sợi này thông qua cuống tuyến yên theo động mạch vào tuyến yên phân bố đến cả thuỳ trước và thuỳ sau. Nhiều người cho rằng chúng là thần kinh vận mạch chứ không phải thần kinh tiết.

– Sợi thần kinh phó giao cảm từ thần kinh mặt đến. Sợi này sau khi vào tuyến yên cũng phân bố đến thuỳ trước và thuỳ sau. Song tác dụng điều hoà đến hoạt động tiết cũng rất ít.

– Sợi phát xuất trực tiếp từ các nhân ở vùng dưới đồi (nhân bên buồng và nhân trên thị) qua cuống tuyến yên đi xuống tuyến yên hình thành bó thần kinh vùng dưới đồi tuyến yên. chúng phân bố chủ yếu vào thuỳ sau, chỉ có một số sợi vào thuỳ giữa mà không vào thuỳ trước.

Sự cung cấp màu cho thuỳ tuyến thì rất nhiều nhưng cho thuỳ thần kinh thì rất ít. Máu động mạch xuất phát từ động mạch cổ trong phân nhánh đến tuyến yên, còn máu tĩnh mạch thì từ tuyến yên đi ra trực tiếp đổ vào gần xoang màng não cứng.Trong tuyến yên còn có một hệ thống tĩnh mạch cửa (tựa như ở gan gọi là tĩnh mạch cửa tuyến yên – tĩnh mạch corpa). Chúng bắt nguồn từ vùng dưới đồi theo cuống tuyên yên đi xuống phân nhánh dày đặc và đi vào thuỳ trước. Hệ tĩnh mạch cửa này có ý nghĩa quan trọng trọng việc vận chuyển các yếu tố giải phóng RF từ vùng dưới đồi xuống thuỳ trước và thuỳ giữa để điều hoà hoạt động của thuỳ trước và thuỳ giữa.

Mỗi thuỳ tiết ra những hormon khác nhau và có chức năng sinh lý khác nhau.

Thuỳ trước tuyến yên tiết ra các hormone sau đây: STH, TSH, ACTH, GH (FSH, LH, LTH), mỗi loại có cấu trúc và tác dụng sinh lý khác nhau.

a. Somatotropin hormon (STH)

STH còn gọi là kích sinh trưởng tố với tác dụng chính của nó là kích thích sự sinh trưởng của cơ thể. Nó gồm 245 amino acid sắp xếp trên một mạch polypetid. Trọng lượng phân tử TSH khác nhau tuỳ loài. Ví dụ cừu 48.000, bò 45.000, người và khỉ 21.000. Cần chú ý là giữa các loài có sự khác nhau về phương diện miễn dịnh, nên STH của loài này không có tác dụng đối với loài khác. Nó dễ bị thuỷ phân khi gặp acid mạnh và gặp các enzyme tiêu hoá.

Tác dụng sinh lý của Somatotropin hormon (STH)

– Kích thích sự phát triển của cơ thể non đang lớn

Kích thích sự phát triển của cơ thể non đang lớn được thông qua cơ chế làm tăng đồng hoá protein ở mô bào, gây cân bằng dương nitơ, thể hiện mấy điểm sau đây: Kích thích vận chuyển amino acid qua màng tế bào. Tăng tổng hợp RNA thông tin từ đó tăng tổng hợp protein. Nếu STH tiết quá nhiều súc vật non mang chứng phát triển khổng lồ. Còn đối với gia súc trưởng thành (khi đã hoàn thành sự cốt hoá xương) sẽ dẫn đến chứng to đầu ngón các bộ phận như đầu, hàm dưới, bàn chân, bàn tay to ra, các phủ tạng như: tim, gan, ruột già cũng bị nở to. Song nhược năng tuyến yên trước tuổi trưởng thành thì cơ thể sẽ lùn bé. Nhược năng sau tuổi trưởng thành cơ thể mắc bệnh, gọi là bệnh ximông (simmonds) và bệnh này hay xảy ra ở người. Người bệnh bị gầy đét, teo bộ phận sinh dục, tóc, lông rụng chuyển hoá cơ thể giảm, sút cân, thân nhiệt giảm, tim đập chậm, huyết áp hạ, giảm đường huyết trầm trọng.

– Thúc đẩy sự phân giải mỡ

Làm giải phóng những acid béo không đặc trưng từ kho mỡ, thúc đẩy oxy hoá acid béo.

Nếu STH tiết nhiều sẽ gây chứng toan huyết và toan niệu. Đối với trao đổi đường thì STH gây tăng đường huyết và bị mất theo nước tiểu phát sinh bệnh đái đường. STH một mặt ức chế tế bào β của đảo tuy làm giảm tiết insulin, mặt khác ức chế hoạt tính enzyme hexokinase làm giảm sự phosphoryl hoá glucose khiến glucose khó vận chuyển qua màng tế bào vào trong tế bào gan để tổng hợp thành glycogen dự trữ.

– Điều hoà trao đổi Ca, P

Thông qua cơ chế điều hoà Ca và P mà hormone này có tác dụng xúc tiến tạo xương.

b. Thyroid-stimulating hormone (TSH)

TSH còn gọi là kích giáp trạng tố, vì tác dụng chủ yếu của nó là lên sự phát dục và hoạt động của tuyến giáp. TSH là một glycoprotein có chứa S và chứa 2 phân tử đường. Trọng lượng phân tử là 28.000.

Tác dụng sinh lý TSH kích thích sự phát dục của tuyến giáp trạng và kích thích tuyến giáp tiết thyroxine.

Dưới ảnh hưởng của TSH, mô tuyến giáp nở to, xuất hiện nhiều hạt keo trong bao tuyến. Ngày nay người ta thấy TSH có tác dụng lên suốt cả quá trình tạo hợp thyroxine từ khâu kết hợp Iod với thyroxine cho đến khâu giải phóng thyroxine ra khỏi phức hợp thyreo-globulin, nhập vào dòng máu để đi gây tác dụng.

c. Adrenal-corticotropin hormon (ACTH)

ACTH còn gọi là kích thượng thận bì tố, vì nó ảnh hưởng chủ yếu của nó lên sự phát dục và hoạt động của vỏ thượng thận. ACTH của nhiều loại động vật đã được phân lập. Tất cả đều có cấu tạo là một mạch polypeptid gồm 39 amino acid. Người ta thấy rằng chỉ 24 amino acid đầu là cần thiết cho hoạt tính của hormone. Trình tự sắp xếp 24 amino acid đầu này giống nhau giữa các loài (kể cả người). 15 amino acid còn lại không có hoạt tính rõ rệt và thay đổi tuỳ loài. Cấu trúc ACTH đã được Lee tìm ra 1961.

ACTH là kích thích sự phát dục của miền vỏ tuyến thượng thận, chủ yếu là lớp dậu và kích thích lớp dậu tiết các hormone glucocorticoid. Trên lâm sàng các bệnh nhược năng tuyến yên đều có kèm theo triệu chứng nhược năng vỏ thượng thận. Ngược lại các bệnh ưu năng tuyến yên đều có kèm theo triệu chứng ưu năng vỏ thượng thận.

Tiêm ACTH cho động vật thí nghiệm

ACTH làm tăng bài tiết các hormon glucocorticoid của vỏ thượng thận từ đó gây nên tăng đường huyết, tăng huy động mỡ, tăng đào thải mỡ qua nước tiểu, tăng ứ đọng Na và H 2 O, tăng bài tiết K, giảm lượng bạch cầu ái toan trong máu tuần hoàn, giảm chứng viêm, tăng bài tiết các hormon sinh dục, đặc biệt là hormon sinh dục đực, tăng khối lượng máu tuần hoàn đến thận, làm nở to vỏ thượng thận

Tác dụng của ACTH chủ yếu thông qua hormon của vỏ thượng thận. Ngày nay qua một số thí nghiệm có tác giả cho rằng ở một chừng mực nhất định, tác dụng của ACTH lên cơ thể có thể trực tiếp không qua vỏ thượng thận.

d. Gonado-tropin hormon (GH)

Gonado-tropin hormon là kích tố hướng sinh dục nó bao gồm các hormon sau đây:

FSH (foliculo-stimulating hormon); LH (luteinizing hormon) và ở con đực gọi là ICSH; LTH (luteino-stimulating hormon) ở con cái.

Foliculo-stimulating hormon (FSH)

FSH còn gọi là kích noãn bào tố, nó là một glucoprotein, phân tử lượng 25.000 – 30.000 gồm 250 amino acid trong đó giàu cystine. Ở con cái: tác dụng sinh lý của FSH là kích thích sự phát triển của noãn bào đến dạng chín gọi là nang. Graaf nổi cộm lên trên mặt buồng trứng, kích thích noãn bào tiết noãn tố estrogen. Ở con đực, FSH có tác dụng kích thích sự phát dục của ống sinh tinh và các tế bào sertoli ở ống sinh tinh sản sinh ra tinh trùng.

Còn gọi là kích sinh hoàng thể tố. Nó có cấu trúc là glucoprotein, phân tử lượng 30.000 – 40.000, bao gồm 250 amino acid. Ở con cái: LH cùng với FSH thúc đẩy noãn bào chín và tiết nhiều kích tố sinh dục cái estrogen. LH còn có tác dụng làm mọng chín màng noãn bào, bằng cách kích thích tăng bài tiết dịch vào trong xoang bao noãn. Khi đạt đến một áp lực lớn thì làm vỡ noãn bào gây trứng rụng. Sau khi trứng rụng LH kích thích biến bao noãn bào còn lại thành thể vàng và kích thích thể vàng tiết hoàng thể tố progesterone.

FSH chỉ có tác dụng làm trứng chín không làm trứng rụng, muốn trứng chín rụng được phải có LH. Qua nhiều nghiên cứu muốn cho trứng chín và rụng được thì tỷ lệ LH/FSH phải bằng 3/1 đó là điểm mấu chốt giải thích những hiện tượng chậm sinh, vô sinh ở gia súc.

Chậm sinh là trường hợp gia súc đạt tuổi thành thục về tính quá muộn biểu hiện tuổi xuất hiện động dục muộn, do lượng FSH quá ít, không đủ làm trứng chín để tiết đủ noãn tố oestroren gây động dục.

Còn vô sinh có hai trường hợp: – Có động dục mà không có rụng trứng, còn gọi là động dục giả; do đủ lượng FSH để làm noãn bào chín tiết đủ oestroren gây động dục nhưng không đủ lượng LH nên không làm trứng rụng được. Mãi mãi vẫn không có động dục: do không đủ lượng FSH không làm cho noãn bào chín nên không gây được động dục.

Ở con đực, tương đương với LH của con cái có ICSH còn gọi là hormon kích thích tế bào kẽ. ICSH kích thích sự phát triển của tế bào kẽ leydig, ở giữa các ống sinh tinh và kích thích tế bào này tiết ra hormon sinh dục đực androgen.

Lutein-stimulating hormon (LTH)

LTH có cấu trúc mạch polypeptid, phân tử lượng 26.000, bao gồm 211 amino acid giàu xerine. Nó còn được gọi là kích tố dưỡng thể vàng. Sau khi trứng rụng có hai trường hợp xảy ra:

– Nếu trứng rụng mà được thụ tinh thì bao noãn còn lại biến thành thể vàng và tiết một lượng progesterone đầu tiên dưới tác dụng của LH. Sau đó LTH duy trì thể vàng và tiếp tục kích thích thể vàng tiết progesterone.

– Với hàm lượng cao progesterone và oestrogen tạo một mối liên hệ người âm tính ức chế lại vùng dưới đồi và tuyến yên làm giảm tiết FSH và LH khiến cho những noãn bào khác không tiếp tục phát triển đến độ chín và do vậy làm cho lượng oestrogen giảm xuống, do đó con vật sau khi trứng rụng mà được thụ tinh thì không còn có hiện tượng động dục nữa.

– Nếu trứng rụng mà không được thụ tinh thì sau thì vào ngày thứ 17 của chu kỳ động dục ở phần lớn gia súc, lớp tế bào nội tiết ở nội mạc tử cung tiết hormon prostaglanding-F2α và làm thể vàng bị teo biến đi thành một vết sẹo màu trắng bạc gọi là bạch thể.

Lượng progesterone giảm nhanh chóng khiến việc tiết FSH và LH không còn bị ức chế nữa, những noãn bào khác tiếp tục phát triển đến độ chín và một chu kỳ động dục khác lại xuất hiện.

– Ngay sau đẻ LTH mang tên prolactin, có tác dụng kích thích sự tiết sữa vào xoang sữa để cùng với oxytocin gây thải sữa ra ngoài.

Thuỳ giữa tuyến yên tiết ra một hormon có tên là melanin-stimulating hormon (MSH) còn gọi là kích tố giãn hắc bào. Dưới tác dụng của MSH những hạt sắc tố đen trong bào tương của tế bào biểu bì da từ dạng tập trung sẽ phân tán khắp bào tương làm cho da đen lại.

Ở con ếch, nhờ có MSH mà biến đổi màu da thường xuyên, để phù hợp với đời sống của nó. Khi nằm trong hang thì những hạt sắc tố tập trung lại trong bào tương làm da tái nhạt. Nhưng khi nó ra ở ngoài thì thuỳ giữa tuyến yên tiết ra MSH làm cho da của nó biến thành màu sẫm như màu cỏ cây, có tác dụng bảo vệ. Người ta cho rằng MSH chỉ làm phân tán các sắc tố, còn tập trung lại các sắc tố là do adrenaline.

Ở người đang nắng cả ngày, da đen rám nắng, cũng do tác dụng của MSH để ngăn cản sự xâm nhập sâu vào cơ thể của tia hồng ngoại mặt trời kể cả tia tử ngoại.

Thuỳ sau tuyến yên tiết ra 2 hormon là (1)Antidiuretic hormon (ADH) và (2) oxytocin. Antidiuretic hormon (ADH): còn có tên vasopressin, còn được gọi là kích tố kháng lợi niệu. Cấu trúc của nó là một mạch peptit gồm 9 amino acid, phân tử lượng là 1.102. Tác dụng sinh lý chính của ADH là thúc đẩy quá trình tái hấp thu chủ động nước ở ống thận nhỏ để chống lại sự mất nhiều nước theo nước tiểu, giữ nước lại cho cơ thể. Tác dụng thứa hai của ADH là gây co mạch làm tăng huyết áp (trừ mạch máu não và thận) vì thế nó còn có tên vasopressin. Hai hormon này đều do thuỳ sau tuyến yên (Posterior pituitery gland) tiết ra, chỉ khác nhau ở hai gốc acid amin ở vị trí số 3 và số 8, nhưng chức năng sinh lý lại rất khác nhau.

Antidiuretic hormon (ADH), còn có tên vasopressin

Oxytocin còn gọi là hormon thúc đẻ. Công thức hoá học của nó cũng là một mạch peptit gồm 9 amino acid và phân tử lượng là 1025.

Tác dụng sinh lý chính của oxytocin là gây co bóp cơ trơn tử cung có tác dụng thúc để đẩy thai ra ngoài trong quá trình đẻ. Một tác dụng khác không kém phần quan trọng của oxytocin là kích thích sự bài tiết sữa. Nó cũng có ảnh hưởng nhẹ lên sự co bóp của cơ trơn bóng đái và cơ ruột. Oxytocin còn gây co mạch máu tử cung làm hạn chế chảy máu sau khi đẻ.

III. Mối liên hệ điều hoà giữa vùng dưới đồi – tuyến – yên – các tuyến nội tiết đích hoặc cơ quan đích

Ở trên chúng ta đã nói về giữa vùng dưới đồi và tuyến yên, có một mối quan hệ chặt chẽ về mặt giải phẫu. Mối quan hệ đó đảm bảo mối quan hệ chức năng mật thiết giữa chúng và cùng với các tuyến nội tiết đích hoặc cơ quan đích khác tạo thành một hệ thống điều hoà quan trọng trong hoạt động nội môi.

Qua bảng trên chúng ta thấy, vùng dưới đồi đã tiết ra yếu tố giải phóng RF (dưới ảnh hưởng của những nhân tố nội, ngoại cảnh) xuống kích thích tuyến yên tiết những hormon tương ứng. Rồi những hormon này tác dụng lên những tuyến đích hoặc cơ quan đích tiết hormon của mình hoặc cơ quan đích phát triển.Tuy nhiên mối liên hệ này vừa thuận vừa nghịch, trong đó mối liên hệ ngược chiếm một vị trí quan trọng đảm bảo điều hoà tiết chế trong nội bộ của hệ thống điều hoà gọi là cơ chế điều khiển ngược (feedback mechanism). Sơ đồ trên hình 9.1, với các mũi tên chỉ sự điều khiển ngược vòng dài (1), vòng ngắn (2) và vòng cực ngắn (3).

Riêng đối với LTH có một yếu tố giải phóng PRF và cả yếu tố ức chế PIF chi phối cũng như đối với MSH có cả MRF và MIF chi phối. ADH và Oxytocin, theo những nghiên cứu gần đây thì chúng được tiết ra từ các nhân bên buồng và trên thị ở vùng dưới đồi, rồi trượt theo các sợi thần kinh xuống đọng lại ở các bọc tận cùng của thuỳ sau tuyến yên khi cần, các bọc ấy vỡ ra, phóng thích những hormon vào dòng máu chung để đi gây tác dụng.

Tuyến Yên Là Gì? Cấu Tạo Và Chức Năng Của Tuyến Yên

Tuyến yên là gì?

Tuyến yên hay còn gọi là tuyến não thùy là một tuyến nội tiết kích thước của tuyến yên chỉ bằng hạt đậu và có khối lượng bằng 0.5g nằm ở sàn não thất ba, trong hố yên của thân xương bướm. Tuyến yên là một phần quan trọng của một hệ thống tín hiệu đặc biệt, giúp điều hòa nhiều chức năng khác nhau của cơ thể. Tuyến yêngiúp kiểm soát các chức năng đó bằng cách phóng thích các hormone vào máu.

Cấu tạo của tuyến yên

Cấu tạo của tuyến yên được chia làm ba thùy: thùy trước, thuỳ giữa và thuỳ sau.

Cấu tạo tuyến yên

Thùy trước: Được chia làm 3 phần gồm phần phễu, phần trung gian, và phần xa. Thùy trước tuyến yên có đặc tính là một tuyến nội tiết, nó có hai loại tế bào là tế bào ưa axit tiết ra hormone GH và Prolactin, tế bào ưa kiềm tiết ra ACTH, TSH, FSH, LH, Lipoprotein.

Thùy giữa: Ở người chỉ có một lớp tế bào mỏng. Thuỳ giữa tuyến yên tiết ra MSH. Động mạch cung cấp máu cho tuyến yên là hai nhánh động mạch tuyến yên trên và động mạch tuyến yên dưới, cả hai nhánh động mạch đều bắt đầu từ động mạch cảnh trong.

Thùy sau: Gồm các tế bào gần như các tế bào mô thần kinh đệm, các tế bào này không có khả năng bài tiết hormone. Chúng chứa các hormone do vùng dưới đồi bài tiết đó là Vasopressin và Oxytoxin.

Chức năng của tuyến yên

Chức năng của tuyến yên gồm sản sinh ra hormone quyết định sự tăng trưởng của cơ thể (GH) và sự tăng trưởng phát triển các tuyến sinh dục (LH, FSH). Đặc biệt các hormone tuyến yên còn có tác dụng điều hòa hầu hết các tuyến nội tiết khác, nên tuyến yên được coi là đầu đàn trong các tuyến hệ nội tiết

Tuyến yên sản sinh hormone làm tăng hấp thu nước ở ống lượn xa và ống góp. Nếu thiếu hormone này thì nước không thể tái hấp thu ở thận gây bệnh đái tháo nhạt Và một loại hormone khác có tác dụng làm tăng co bóp cơ tử cung Phụ nữ có thai thường có nồng độ hormone này tăng cao trong máu. Đến giai đoạn sinh, tác dụng của hormone này làm co bóp mạnh cơ tử cung và giúp em bé ra ngoài.

Tuyến yên là đầu đàn trong các tuyến hệ nội tiết

Tuyến yên có tầm quan trọng sinh tử nhưng lại có tầm vóc rất nhỏ bé. Nó nằm dính liền dưới não và được che chở bằng một cấu trúc xương.Tuyến yên điều khiển sự tăng trưởng của trẻ nhỏ bằng cách tác động vào một tuyến khác là tuyến giáp

Bướu hay khối u mọc trong tuyến yên có thể khiến cho hoạt động quá mức hoặc dưới mức cần thiết. Một trong những kết quả của hoạt động quá mức của tuyến yên là người sẽ cao lớn bất thường và khi hoạt động dưới mức thì người sẽ có vóc dáng nhỏ bé.

Các Hormone Sinh Ra Từ Tuyến Yên

Tuyến yên có những loại tế bào tuyến khác nhau, mỗi loại tế bào tuyến tiết ra một loại nội tiết tố (hormone) tương ứng và đồng thời tác động lên các cơ quan hay tuyến nội tiết khác của cơ thể. Thùy trước tuyến yên sản xuất các hormone có tác dụng điều hòa các hoạt động của cơ thể trên phạm vi rất rộng. Thùy trước tuyến yên có ít nhất bảy loại hormone khác nhau được tiết ra trong khi đó thùy sau tuyến yên chỉ sản xuất hai loại hormone.

1. Sinh lý tuyến yên

Tuyến yên là một tuyến nội tiết (sản xuất hormone). Đây là một phần quan trọng của một hệ thống tín hiệu đặc biệt, giúp điều hòa nhiều chức năng khác nhau của cơ thể. Tuyến yên có vai trò kiểm soát chức năng của cơ thể bằng cách phóng thích các hormone (còn được gọi là nội tiết tố) vào máu. Các hormone tuyến yên được vận chuyển vào trong máu để đến các cơ quan đích (target).

Thông thường tại các cơ quan đích, chúng làm phóng thích một hormone thứ hai. Cơ quan đích có thể là tuyến nội tiết đặc biệt hoặc là các loại mô khác nhau trong cơ thể như một số nhóm tế bào.

Tuyến yên có hai phần (thùy) chính: Tuyến yên trước (ở phía trước) và tuyến yên sau (ở phía sau). Hai phần này phóng thích tiết nội tiết tố khác nhau nhắm đến các cơ quan đích khác nhau của cơ thể.

2. Hormone tuyến giáp

2.1 Tác dụng

Tác dụng trong tất cả các giai đoạn tổng hợp, bài tiết hormone giáp.

Dinh dưỡng tuyến giáp và tăng phát triển hệ thống mao mạch của tuyến giáp.

Kích thích tuyến giáp sản xuất hormone tuyến giáp là triiodothyronine (T3) và thyroxine (T4).

Kiểm soát nhiều chức năng của cơ thể, bao gồm nhịp tim, nhiệt độ và sự trao đổi chất.

2.2. Điều hoà bài tiết

TSH được bài tiết do cơ chế điều khiển của TRH, phụ thuộc vào nồng độ T3, T4 tự do theo cơ chế điều hòa ngược. Nồng độ bình thường người trưởng thành là 2,12 (0,91 mU/L).

3. Hormone tuyến thượng thận

3.1. Tác dụng

Dinh dưỡng, kích thích sự tổng hợp và bài tiết hormone vỏ thượng thận.

Tác dụng chủ yếu lên lớp bó và lớp lưới bài tiết glucocorticoid và androgen.

Kích thích tuyến thượng thận sản xuất cortisol. Cortisol quan trọng trong việc kiểm soát sự trao đổi chất của cơ thể, lượng đường trong máu và huyết áp.

Trên tổ chức não, ACTH làm tăng quá trình học tập và trí nhớ.

Kích thích tế bào sắc tố sản xuất ra melanin, do đó sự rối loạn bài tiết ACTH cũng gây tăng hay giảm sắc tố ở da.

3.2. Điều hoà bài tiết

Sự bài tiết hormone tuyến thượng thận ACTH do nồng độ CRH của vùng dưới đồi quyết định, khi nồng độ CRH tăng làm tăng tiết ACTH. Ngoài ra còn do tác dụng điều hoà ngược âm tính và dương tính của cortisol. Đồng thời ACTH cũng được điều hoà theo nhịp sinh học, nồng độ ACTH đạt cao nhất từ 6-8 giờ sáng. Ở người Việt Nam trưởng thành (lấy máu lúc 8 giờ 30 phút trên 25 nam khỏe mạnh) nồng độ ACTH là 9,78 ( 4,60 pg/ml).

4. Hormone tăng trưởng GH

4.1. Tác dụng

Tác dụng phát triển cơ thể:

Tác dụng lên hầu hết các mô cơ thể, tăng số lượng và kích thước tế bào, tăng kích thước các phủ tạng. Kích thích sự phát triển của các mô sụn ở đầu xương dài do đó làm thân xương dài ra, đồng thời mô sụn cũng dần được cốt hoá cho đến tuổi vị thành niên, lúc này đầu xương và thân xương hợp nhất với nhau và xương không dài nữa. GH làm tăng độ dày màng xương với những xương đã cốt hóa. Tác dụng này thể hiện rõ trong giai đoạn phát triển và tiếp tục duy trì suốt đời.

Tác dụng lên chuyển hóa.

Tăng tổng hợp protein, tăng thu nhận acid amin vào tế bào.

Gây tăng đường huyết nguyên nhân do làm giảm sử dụng glucose tế bào, tăng dự trữ glycogen tế bào, giảm đưa glucose vào tế bào, tăng bài tiết insulin và kháng insulin ở mô cơ làm giảm vận chuyển glucose qua màng tế bào.

Tăng huy động mỡ dự trữ nhằm cung cấp năng lượng vì vậy làm tăng nồng độ acid béo trong máu. Dưới tác dụng của hormone tăng trưởng GH, lipid được sử dụng để tạo năng lượng nhằm tiết kiệm protein dành cho sự phát triển cơ thể.

5. Hormone FSH

Tác dụng của hormone FSH giúp kích thích buồng trứng sinh nang trứng và tinh hoàn sinh tinh trùng. Trong khi đó, hormone Luteinising hormone (LH) kích thích sự rụng trứng và kích thích các tế bào trong tinh hoàn sản xuất testosterone.

Ở nam giới: Kích thích sự phát triển ống sinh tinh, tăng trọng lượng tinh hoàn, duy trì sự sản sinh tinh trùng nhưng không kích thích làm tăng tiết hormone sinh dục đực.

Ở nữ giới: Kích thích sự phát triển của các nang trứng trong giai đoạn đầu, phối hợp LH làm cho trứng chín, rụng và bắt đầu bài tiết estrogen

Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đăng ký trực tuyến TẠI ĐÂY.

Cập nhật thông tin chi tiết về Suy Tuyến Yên Toàn Bộ trên website Nhatngukohi.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!