Xu Hướng 10/2023 # Sở Văn Hóa Thể Thao Và Du Lịch # Top 18 Xem Nhiều | Nhatngukohi.edu.vn

Xu Hướng 10/2023 # Sở Văn Hóa Thể Thao Và Du Lịch # Top 18 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Sở Văn Hóa Thể Thao Và Du Lịch được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Nhatngukohi.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Chức năng

1. Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Hậu Giang là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hậu Giang, có chức năng thực hiện các hoạt động về công tác thông tin, xúc tiến du lịch và dịch vụ lữ hành trên địa bàn tỉnh Hậu Giang;

2. Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Hậu Giang chịu sự chỉ đạo quản lý về tổ chức, biên chế và hoạt động của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, đồng thời chịu sự hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của Tổng Cục Du lịch - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Tên giao dịch bằng tiếng Việt: Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Hậu Giang.

Tên giao dịch bằng tiếng Anh: Hau Giang Information Tourism And Promotion Center.

Nhiệm vụ, quyền hạn

1. Kết hợp với phòng Nghiệp vụ Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện điều tra, đánh giá, phân loại, xây dựng cơ sở dữ liệu tài nguyên du lịch của tỉnh theo Quy chế của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch;

2. Thực hiện các biện pháp xúc tiến nhằm bảo vệ, tôn tạo, khai thác, sử dụng hợp lý và phát triển tài nguyên du lịch, môi trường du lịch, khu du lịch, điểm du lịch của tỉnh;

3. Tổ chức Xúc tiến lập hồ sơ đề nghị công nhận khu du lịch địa phương, điểm du lịch địa phương, tuyến du lịch địa phương; công bố sau khi có quyết định công nhận;

4. Tham gia với các cơ quan chuyên môn thẩm định hồ sơ đề nghị cấp có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh lữ hành quốc tế của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật;

5. Tham gia thẩm định cấp biển hiệu đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch cho cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch trong khu du lịch, điểm du lịch, đô thị du lịch;

6. Giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh xây dựng kế hoạch, chương trình xúc tiến du lịch và tổ chức thực hiện chương trình xúc tiến du lịch, sự kiện, hội chợ, hội thảo, triển lãm du lịch của địa phương sau khi được phê duyệt;

7. Làm đầu mối liên hệ với các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh, kết nối với các tour lữ hành đến tỉnh nhằm đẩy mạnh các hoạt dộng du lịch, giới thiệu các sản phẩm du lịch, khu du lịch, di tích lịch sử văn hóa và danh thắng của Tỉnh;

8. Tăng cường hoạt động tuyên truyền, quảng bá, vận động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Hậu Giang;

9. Nghiên cứu thị trường du lịch, tham mưu cho ngành xây dựng sản phẩm du lịch của tỉnh phù hợp với thị hiếu khách du lịch;

10. Tổ chức tập huấn nghiệp vụ du lịch theo chương trình hành động Quốc gia về Du lịch; hoặc phối hợp với các Trường Nghiệp vụ Văn hoá, Thể thao và Du lịch trong và ngoài tỉnh đào tạo, bồi dưỡng theo chuyên ngành;

11. Tổ chức cho công chức, viên chức và các tổ chức, cá nhân kinh doanh trong lĩnh vực du lịch nghiên cứu, học tập về quản lý, đầu tư xây dựng các mô hình tiên tiến trong và ngoài nước;

12. Phối hợp với Cục Xúc tiến Du lịch – Tổng cục Du lịch, VCCI Việt nam tại cần Thơ, Hiệp hội Du lịch Đồng bằng Sông Cửu Long về ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý xúc tiến du lịch của ngành;

13. Tổ chức đón tiếp, bố trí chương trình cho các doanh nghiệp, các tổ chức và cơ quan trong và ngoài nước vào tỉnh tìm hiểu môi trường đầu tư về du lịch, tìm hiểu cơ hội kinh doanh và đầu tư theo kế hoạch được phê duyệt; Tổ chức các tour du lịch lữ hành, bán vé máy bay, vé tàu hoả cho các cá nhân, các đơn vị có nhu cầu đi trong và ngoài nước.

                                                                                                                                                                                                               Tổ chức bộ máy và biên chế

1.Lãnh đạo:

Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Hậu Giang có Giám đốc và các Phó Giám đốc.

a) Giám đốc là người đứng đầu cơ quan, làm việc theo chế độ thủ trưởng, chịu trách nhiệm trước Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hậu Giang và trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của đơn vị, đồng thời thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

b)Phó Giám đốc là người tham mưu giúp Giám đốc chỉ đạo một số mặt công tác, chịu trách nhiệm trước Giám đốc và trước pháp luật về thực hiện nhiệm vụ được phân công.

2. Cơ cấu tổ chức:

                  – Phòng Hành chính – Tổng hợp;

– Phòng Thông tin Xúc tiến Du lịch;

– Phòng Dịch vụ Lữ hành.

3. Về biên chế:

Biên chế Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Hậu Giang là biên chế sự nghiệp do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh đề xuất với UBND tỉnh xem xét giao trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, khối lượng công việc của đơn vị theo hàng năm.

Danh sách công chức, viên chức Trung tâm TTXTDL tỉnh:

STT

Họ Tên

Chức vụ

Ghi chú

1

Nguyễn Văn Hoàng

Giám đốc

2

Võ Hoàng Vũ

Phó Giám đốc

3

Trần Văn Đạt

Phó Giám đốc

4

Nguyễn Diễm Trinh

Trưởng phòng HC-TH

5

Lưu Văn Ánh

Phó Trưởng phòng

6

Nguyễn Văn Toàn

Chuyên viên

7

Lê Thị Bé Chúc

Chuyên viên

8

Phạm Thuý Quyền

Chuyên viên

9

Võ Ngọc Giàu

Chuyên viên

10

Nguyễn Bích Ngân

Chuyên viên

11

Bùi Trần Trang Nhã

Chuyên viên

12

Trần Ngọc Diễm

NV Phục vụ

Bộ Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Việt Nam

08:31, 12 Tháng Sáu 2023

Để có được một cơ chế du lịch nông thôn bền vững tại làng cổ Đường Lâm, du lịch cần mang lại lợi ích kinh tế và xã hội cho cộng đồng.

Để có được một cơ chế du lịch nông thôn bền vững tại làng cổ Đường Lâm, du lịch cần mang lại lợi ích kinh tế và xã hội cho cộng đồng, phải làm tốt được công tác bảo tồn di sản văn hóa và cải thiện sinh kế của người dân địa phương.

Năm 2003, Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) hợp tác với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam để bảo tồn di sản và phát triển làng cổ Đường Lâm như một điểm đến du lịch nông thôn. Mục đích của JICA là nhằm cải thiện sinh kế của người dân nông thôn qua việc cử các chuyên gia, tình nguyện viên sang Việt Nam và thực hiện nhiều dự án.

Sau cuộc khảo sát, Việt Nam đã công nhận khu bảo tồn tại làng gồm 5 thôn là Mông Phụ, Cam Thịnh, Đông Sàng, Đoài Giáp và Cam Lâm có diện tích khoảng 100 ha với dân số khoảng 6.300 người. Trong số đó, Mông Phụ là khu vực chính của khu bảo tồn.

Theo Luật về Di sản văn hóa, làng cổ Đường Lâm đã được công nhận là di tích quốc gia năm 2005. Đây là làng cổ đầu tiên trong cả nước được xếp hạng di tích quốc gia.

Trong năm 2014, Đường Lâm đã đón gần 100.000 du khách trong và ngoài nước đến thăm. Làng Đường Lâm cũng được công nhận là nơi để giáo dục cho thế hệ trẻ hiểu về lịch sử thôn quê ở Việt Nam, hàng năm, có hàng ngàn học sinh sinh viên đến đây để trải nghiệm cuộc sống ở địa phương.

Làng Đường Lâm từ xa xưa đã có rất nhiều sản phẩm truyền thống như: chè Lam, kẹo lạc, kẹo vừng, kẹo dồi, chè kho…. Để có được những sản phẩm chất lượng tốt hơn, một số sản phẩm (hộ gia đình) như chè Lam và kẹo lạc đã được cải thiện bao bì và chất lượng với hình ảnh phong cảnh, công trình di tích của ngôi làng và được cấp giấy chứng nhận an toàn thực phẩm.

Các hướng dẫn viên du lịch địa phương trong làng cũng được đào tạo kỹ năng hướng dẫn, thuyết minh về di sản, quản lý thời gian và tuyến du lịch thích hợp để du khách có thể cảm nhận được cuộc sống của người dân địa phương, trải nghiệm truyền thống địa phương và mua đặc sản địa phương.

Tuy nhiên, trong hành trình phát triển, làng cổ Đường Lâm vẫn gặp phải nhiều thách thức. Trong đó có việc là làm thế nào để tạo sự hài hòa trong việc bảo tồn di sản văn hóa, lối sống truyền thống-hiện đại và phát triển du lịch.

Những ngôi nhà truyền thống đang bị đe dọa bởi sự hủy hoại và xuống cấp do điều kiện khí hậu khắc nghiệt và thời gian, nhiều gia đình trẻ lại thích sống trong một ngôi nhà tiện nghi và hiện đại.

Để quản lý và phát triển tốt làng cổ Đường Lâm, cần phải thực hiện nhiều việc hơn nữa, trong đó có thành lập trung tâm thông tin du lịch tại làng; đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng công cộng, nhà vệ sinh công cộng, hệ thống chiếu sáng, cấp thoát nước, khu bán đồ lưu niệm, khu trải nghiệm nông nghiệp; cải thiện và nâng cấp hệ thống thông tin du lịch ở làng (gồm cả bảng hiệu, bản đồ, sách hướng dẫn…); giảm thiểu các phương tiện gây tiếng ồn (xe máy, ô tô) đi vào làng.

Bên cạnh đó, cần tiếp tục huy động sự tham gia của người dân trong việc duy trì cuộc sống nông thôn và việc canh tác truyền thống; đào tạo các hướng dẫn viên kỹ năng hướng dẫn bằng tiếng Anh và tiếp tục đẩy mạnh tổ chức các sự kiện, lễ hội, hội chợ để thu hút khách du lịch.

Nền Kinh Tế Du Lịch Việt Nam – Văn Hóa Du Lịch Việt Nam

Nền kinh tế du lịch Việt Nam hiện nay đang chịu khá nhiều ảnh hưởng nặng nề từ bão lũ, và dịch bệnh. Trước tình hình hiện nay thì nước ta đang có dấu hiệu hồi phục và phát triển trở lại sau những biến cố

1. Kinh tế du lịch – chìa khóa phát triển nền kinh tế rộng mở

   1. Ngành kinh tế du lịch là gì?

Kinh tế du lịch – chìa khóa phát triển nền kinh tế rộng mở

Ngành kinh tế du lịch trong những năm mới đây đang ngày càng phát triển bởi những tiềm năng được khai thác triệt để và có đạt kết quả tốt. Kinh tế du lịch được rất nhiều các những người có chuyên môn kinh tế đưa rõ ra khái niệm nhưng có một định nghĩa khá rõ ràng về ngành kinh tế du lịch.

Kinh tế du lịch là một loại hình kinh tế có tình đặc thù riêng biệt của dịch vụ và được xem là ngành công nghiệp không khói. DDây là ngành kinh tế có vai trò khai thác các tài nguyên sẵn có của thiên nhiên nhằm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước tới tham quan.

Ngành kinh tế du lịch bao gồm 2 loại:

Du lịch trong nước: Là loại hình tổ chức và khai thác các địa điểm thăm quan, du lịch dành cho khách du lịch nội địa hoặc những khách du lịch tới thăm quan tại đất nước đó.

Du lịch quốc tế: Là loại hình du lịch mà khách du lịch của quốc gia nội tại có nhu cầu và thực hiện tham quan du lịch tại các đất nước khác.

   2. Đặc điểm của ngành kinh tế du lịch – nền kinh tế du lịch Việt Nam

Đặc điểm của ngành kinh tế du lịch có những đặc điểm du lịch sau:

Tính tổng hợp, liên ngành: ngành kinh tế du lịch hay bất kỳ một ngành nào thuộc cơ cấu nền kinh tế của một đất nước đều có mối liên hệ khắn khít và không thể tách rời khỏi nhau. Ngành kinh tế du lịch cần phải mang tính tổng hợp và gắn kết với các lĩnh vực khác như giao thông, nông nghiệp, công nghiệp, tài nguyên và môi trường, văn hóa hay thể thao,…

Tính xã hội hóa: Ngành kinh tế du lịch có đặc điểm xã hội hóa,

có nghĩa là

 có sức 

thu hút

 mọi thành phần chủ thể kinh tế xã hội tham gia (bao gồm cả những chủ thể 

nội địa

 và chủ thể nước ngoài, tức là 

du khách

 nước ngoài).

Tính xanh và sạch: Toàn cầu đang hướng đến sự toàn cầu hóa tuy nhiên đồng thời vẫn phải đưa ra những biện pháp chống thế giới hóa, nhất định là bảo vệ môi trường xanh sạch đẹp. Với đặc trưng là ngành công nghiệp không khói, ngành kinh tế du lịch cần phải giữ vững được cái tên như vậy sao cho đúng với thực tế nhất có thể.

Tính ích lợi và hiệu quả kinh tế cao: Ở đây, chúng tôi muốn nói tới chính là ngành công nghiệp gà đẻ trứng vàng, đấy chính là tính lợi ích và đạt kết quả tốt kinh tế mà ngành kinh tế du lịch đem lại cho nền kinh tế, đóng góp vào ngân sách và cấp độ tăng trưởng GDP của một đất nước.

   3.

Vai trò

 của ngành kinh tế du lịch

Ngành kinh tế du lịch được xem là chìa khóa đẩy mạnh nền kinh tế phát triển phong phú hóa, đa phương hóa tại đất nước nước ta. nhất định, ngành kinh tế du lịch có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế ở một vài khía cạnh sau:

Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và tốc độ tăng trưởng

Ngân sách nhà nước

Tổng 

vốn đầu tư

Công nghệ 

tối tân

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu

Nền văn hóa phong phú

2. Du lịch

đất nước ta

phát triển vượt bậc – nền kinh tế du lịch Việt Nam

Theo Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lê Quang Tùng (tại Diễn đàn cấp cao du lịch Việt Nam diễn ra ngày 12-9-2023), du lịch nước ta đang ở giai đoạn phát triển nhanh, mạnh với lượng du khách quốc tế tăng trưởng cao. Giai đoạn 2023-2023, tốc độ tăng trưởng trung bình khách du lịch quốc tế đạt 12,8%/năm.

Năm 2023, đất nước ta đón 10 triệu lượt khách quốc tế, tăng 26% so với năm 2023, giúp sức trực tiếp đạt 6,96% vào GDP. Hai năm sau đón 15,5 triệu lượt khách quốc tế, tăng 19,9% so với năm 2023, giúp sức trực tiếp ước đạt 8,5% vào GDP.

nếu như không có diễn biến bất thường, năm 2023 du lịch nước ta sẽ hoàn thành chỉ tiêu được Chính phủ giao, đón 18 triệu lượt khách du lịch quốc tế. Trong 11 tháng của năm 2023, số lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt xấp xỉ 16,3 triệu lượt, tăng 15,4% so với cùng kỳ, trong khi đó lượng khách quốc tế đến châu Á-Thái Bình Dương tăng khoảng 6%, đến Đông Nam Á tăng khoảng 5%.

3. Tìm hướng đi mới

Đây chính là các phiên họp sâu hơn về những vấn đề đang còn khó khăn, “nút thắt” của ngành du lịch đất nước ta, lôi cuốn nhiều người có chuyên môn nội địa, quốc tế cùng “hiến kế”, chia sẻ kinh nghiệm.

Trong đó tại phiên toàn thể, Diễn đàn tập trung tranh luận về 2 đề tài. Đó là giải pháp để tạo dựng một Việt Nam tươi đẹp, văn hóa đặc sắc, người dân thân thiện mến khách, nhằm sửa đổi và nâng cấp thứ hạng của du lịch Việt Nam trên bảng xếp hạng toàn cầu.

Tạm kết :

Vũ – Tổng hợp, chỉnh sửa (Nguồn tổng hợp : chúng tôi chúng tôi … )

Di Sản Văn Hóa Với Phát Triển Du Lịch

Thực tế minh chứng di sản văn hóa tạo sức hấp dẫn vô cùng tận cho điểm đến du lịch. Di sản văn hóa là động cơ, là duyên cớ thôi thúc chuyến đi, là môi trường tương tác và là những trải nghiệm đáng giá cho du khách, qua đó trở thành tài nguyên, nguồn lực chiến lược cho phát triển du lịch. Cũng chính sức cuốn hút ấy của di sản văn hóa đã tạo nên những làn sóng đầu tư vào du lịch di sản, những dòng khách du lịch tấp nập đổ về; người người, nhà nhà làm du lịch…Điều đó mang lại không chỉ những kết quả tăng trưởng lan tỏa nhiều mặt về kinh tế-xã hội, mà còn bảo tồn chính di sản văn hóa. Nhưng cũng chính quá trình vận động du lịch ồ ạt thiếu kiểm soát ở nhiều nơi đang gieo rắc không ít những tác động tiêu cực tới di sản văn hóa trở thành những hệ lụy phải trả giá đắt. Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay đòi hỏi các bên cùng hành động, có những biện pháp kiểm soát thích đáng để bảo tồn và phát huy bền vững đối với di sản văn hóa trong phát triển du lịch.

Di sản văn hóa tạo động lực cho du lịch: Di sản văn hóa là tài nguyên du lịch có sức hấp dẫn mạnh mẽ, là động lực thu hút ngày càng nhiều khách tham quan trong nước và khách du lịch quốc tế đến Việt Nam. Hiện nay, ngành du lịch xem đây là nền tảng, trụ cột quan trọng để phát triển kinh tế du lịch bên cạnh các yếu tố về hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật chuyên ngành và nguồn nhân lực. Di sản văn hóa cũng là công cụ hỗ trợ tích cực trong việc định vị hình ảnh, xây dựng thương hiệu du lịch Việt Nam.

Chúng ta có quyền tự hào về bề dày lịch sử ngàn đời của đất nước với 54 dân tộc anh em đã để lại cho hôm nay một kho tàng di sản văn hóa đồ sộ, vô cùng phong phú, đa dạng và độc đáo. Đến nay đã có 24 di sản văn hóa vật thể, phi vật thể và di sản thiên nhiên được UNESCO vinh danh là di sản thế giới; trong đó có 8 di sản thiên nhiên và di sản văn hóa vật thể (Vịnh Hạ Long, Hoàng Thành Thăng Long, quần thể danh thắng Tràng An, Thành Nhà Hồ, Phong Nha Kẻ Bàng, Cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Di tích Mỹ Sơn); 12 di sản văn hóa phi vật thể (Nhã nhạc Cung đình Huế, Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca Quan họ, Lễ hội Gióng, Ca Trù, Hát Xoan, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam, Dân ca Ví Giặm Nghệ Tĩnh, Nghi lễ kéo co, Đờn ca Tài tử Nam Bộ; Bài Chòi Trung Bộ); và 4 di sản tư liệu (Bia Tiến sỹ Văn Miếu Quốc Tử Giám, Mộc bản Triều Nguyễn, Châu bản Triều Nguyễn, Mộc bản Kinh Phật Thiền phái Trúc Lâm chùa Vĩnh Nghiêm tỉnh Bắc Giang). Cùng với đó là hàng vạn di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh được công nhận di sản. Chỉ tính riêng di sản văn hóa vật thể ước tính có hơn 3.000 di sản cấp quốc gia và khoảng 7.500 di sản cấp tỉnh và nhiều công trình di tích vẫn đang được thống kê; hệ thống các lễ hội, làng nghề truyền thống; văn hóa ẩm thực của các vùng miền, của các dân tộc; các di sản văn hóa văn nghệ dân gian…

Trên cơ sở phát huy các giá trị di sản văn hóa đặc trưng riêng có của mỗi loại hình di sản, những năm gần đây, du lịch di sản đã phát triển mạnh mẽ, lượng khách tham quan trong nước và quốc tế không ngừng gia tăng, đặc biệt di sản sau khi được Nhà nước lập hồ sơ công nhận và được UNESCO vinh danh. Sức hấp dẫn của di sản đã tạo động lực cho phát triển du lịch mang lại nhiều lợi ích về thu nhập, việc làm và phát triển kinh tế-xã hội địa phương. Cụ thể như Quần thể di tích cố đô Huế, năm 2023 đón 3 triệu lượt khách du lịch, trong đó 1,8 triệu khách du lịch quốc tế, thu được 320 tỷ đồng riêng từ vé tham quan; Phố cổ Hội An đón 1,96 triệu lượt khách, thu về 219 tỷ đồng riêng từ vé tham quan. Các di sản nổi tiếng như Hạ Long, Phong Nha-Kẻ Bàng, Tràng An, Yên Tử, Núi Bà Đen… những năm gần đây không ngừng được đầu tư phát triển. Qua đó, du lịch di sản đã đóng góp to lớn vào sự phát triển vượt bậc của ngành du lịch thời gian qua. Cụ thể giai đoạn từ 2010 đến nay, lượng khách quốc tế đến Việt Nam đã tăng gấp hơn 2,5 lần, từ 5 triệu lượt năm 2010 lên 12,9 triệu lượt năm 2023, trung bình tăng 14,5% năm (đặc biệt năm 2023 tăng tới 29,1% so với 2023). Khách du lịch nội địa tăng gấp 2,6 lần, từ 28 triệu lượt năm 2010 lên 73,2 triệu lượt năm 2023, tăng trung bình 14,6%. Tổng thu du lịch tăng trên 5 lần, từ 96.000 tỷ năm 2010 lên 510.000 tỷ năm 2023, trung bình tăng 26,9%, đóng góp trên 7% GDP và tác động lan tỏa trên 13,9% GDP; tạo ra trên 1,2 triệu việc làm trực tiếp và 3,6 triệu việc làm gián tiếp. Nhiều sản phẩm du lịch di sản đã trở thành thương hiệu đặc trưng cho du lịch Việt Nam. Đặc biệt, di sản văn hoá còn là yếu tố quan trọng tạo nên sự khác biệt cho hệ thống điểm đến và sản phẩm du lịch của Việt Nam, kết nối và đa dạng hoá các tuyến du lịch xuyên vùng và quốc tế.

Du lịch phát huy giá trị di sản văn hóa: Trên thế giới, du lịch văn hóa đã từ lâu và sẽ mãi mãi là trường phái hay dòng sản phẩm du lịch cơ bản. Đặc biệt đối với các quốc gia, vùng lãnh thổ có chiều sâu văn hóa đo bằng hệ thống di sản đậm đặc như nước ta thì du lịch di sản trở thành một trong những thế mạnh nổi trội. Ngày nay, du lịch di sản hướng thu hút khách tìm đến những giá trị về nguồn, tìm hiểu, tương tác, trải nghiệm để thẩm thấu những giá trị di sản văn hóa đậm đà bản sắc của các dân tộc, các tộc người. Ở nước ta, chủ trương phát triển du lịch trên cơ sở bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc đã được thể hiện trong Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Du lịch văn hóa vì vậy là một dòng sản phẩm chủ đạo của du lịch Việt Nam, từ tham quan di tích lịch sử văn hóa, hệ thống bảo tàng, các công trình văn hóa, hoạt động nghệ thuật, cho tới tìm hiểu, tương tác, trải nghiệm văn hóa, lễ hội, lối sống địa phương, thưởng thức ẩm thực, sản vật vùng miền…

Có thể khẳng định, du lịch đã thúc đẩy việc bảo vệ kho tàng văn hóa của quốc gia. Chính nhu cầu tham quan, tìm hiểu, trải nghiệm của du khách đã thôi thúc chính quyền và người dân biết quý trọng, tự hào, quan tâm chăm lo gìn giữ bảo tồn, phục dựng và làm sáng tỏ, phát huy những giá trị vốn quý của di sản văn hóa. Hoạt động du lịch dựa vào di sản ở nhiều nơi như Huế, Hội An, Hạ Long…đã và đang trở thành cơ sở, động lực sinh kế chính, ngành nghề chủ yếu của người dân cũng như ngành kinh tế chủ lực của địa phương. Du lịch di sản vừa tạo ra thu nhập, việc làm vừa tạo động cơ, vừa tạo ra nguồn lực để bảo tồn và phát huy giá trị di sản; đồng thời hỗ trợ tích cực nâng cao chất lượng cuộc sống, tăng cường hiểu biết, tôn trọng đa dạng và giao thoa các nền văn hóa, làm cơ sở hình thành quy tắc ứng xử phù hợp giữa người dân với khách du lịch và với di sản. Những lợi ích của du lịch di sản là không nhỏ và được chia sẻ đến doanh nghiệp, người dân. Một phần doanh thu từ du lịch di sản được quay trở lại tái đầu tư vào việc bảo tồn, tôn tạo, tôn vinh, phục dựng và quản lý di sản. Với ý nghĩa đó, du lịch di sản đóng góp to lớn cho bảo tồn và phát huy bền vững di sản văn hóa.

Lịch Sử Và Văn Hóa

Bánh Đậu xanh là một đặc sản của Hải Dương – một tỉnh thuộc Đồng bằng Bắc Bộ. Chiếc bánh giản dị này cũng có một lịch sử phát triển rất li kỳ. Một lần, vua Bảo Đại kinh lý qua Trấn Hải Dương, đã được nhân dân nơi đây dâng lên một loại bánh làm từ đỗ xanh. Vua ăn thấy rất ngon và khen ngợi hết lời. 

Bánh có hương vị nhẹ nhàng, ngọt, mịn và rất  phù hợp khi uống trà. Bảo Đại sau khi về cung đã ban sắc lệnh khen bánh Đậu xanh Hải Dương. Trên sắc có in hình “Rồng Vàng” – biểu tượng Uy quyền của vua. Kể từ đó bánh Đậu xanh Hải Dương có tên mới là: “Bánh Đậu xanh Rồng vàng”. Cái tên đó cho đến nay vẫn là thương hiệu riêng để phân biệt với các loại bánh Đậu xanh ở các tỉnh khác. Một chiếc bánh Đậu xanh Rồng vàng được làm ra có thể coi là một kì công, kết quả của một nghệ thuật điêu luyện.

Nguyên liệu chính để làm bánh là bột đậu xanh nguyên chất, đường trắng tính luyện và dầu thực vật. Nhưng không phải bột đậu xanh nguyên chất nào cũng làm được bánh. Đỗ xanh dùng làm bánh phải được chọn lọc kỹ càng. Đỗ phải được phơi khô không được để mốc và không dùng đỗ xấu để làm bánh vì sẽ ảnh hưởng tới chất lượng bánh. Đỗ đó được đưa vào rang chín, sau khi đạt đến độ chín đều thì đem xay sau đó lọc bỏ vỏ, rồi nghiền thành bột. Bột đậu xanh này kết hợp với đường trắng tinh luyện cùng dầu thực vật và một số hương liệu khác để tạo thành một chiếc bánh có thể làm đẹp lòng và hợp khẩu vị với mọi lứa tuổi.Bánh Đậu xanh Rồng vàng Hải Dương được chứng nhận là loại bánh có hàm lượng dinh dưỡng rất cao, thích hợp cho mọi lứa tuổi nhất là người già và trẻ em.

Bánh có tác dụng giảm béo đối với những người trung niên, giảm Cholesterol và mỡ trong máu, cũng như đề phòng các bệnh xơ cứng động mạch ở người cao tuổi. Đông y cho rằng: Đậu xanh tính bình, vị ngọt có tác dụng thanh nhiệt, giải độc… rất tốt cho cơ thể con người, đặc biệt là người  mới ốm dậy. Do tính chất tốt của đậu xanh như vậy, cùng với sự thanh tịnh của bánh mà bánh đậu xanh không chỉ được dùng làm quà cho người thân, bạn bè mà còn dùng để thờ cúng tổ tiên vào những ngày lễ tết. Rất nhiều người Việt nói chung và người Hải Dương sống ở nước ngoài, mỗi lần về thăm quê cha đất tổ đều không quên mang theo mấy hộp bánh đậu xanh làm quà khi quay trở lại xứ người. Chút hương vị nhẹ nhàng của chiếc bánh đậu xanh giản dị đã làm ấm lòng người xa xứ.  Bánh Đậu xanh Rồng vàng có thể ăn ở mọi lúc, nhưng sẽ thật thú vị và thật ngon khi ăn bánh với một tách trà nóng. Khi cho bánh vào miệng, lập tức bánh tan mịn và có hương vị ngọt hài hoà. Đáng nhớ biết bao là hình ảnh các cụ già ngồi bên cạnh bạn tâm giao vừa trò chuyện, ngâm thơ vừa uống trà, ăn bánh và ríu rít vây xung quanh là đàn cháu đang vui sướng vì được chia phần. Bánh đậu xanh thật sự có ý nghĩa như là một vật gắn kết các thế hệ trong gia đình và mọi lứa tuổi.

Giải Pháp Phát Triển Du Lịch Di Sản Văn Hóa

(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết đánh giá thực trạng phát triển và khai thác các điểm du lịch di sản văn hóa của Việt Nam trong thời gian qua, những lợi ích đạt được, những bất cập, khó khăn và nguyên nhân. Trên cơ sở đó khuyến nghị và đề xuất với các nhà hoạch định phát triển du lịch di sản văn hóa và cộng đồng địa phương một số giải pháp để phát triển du lịch di sản văn hóa Việt Nam một cách bền vững. Về phát triển du lịch di sản văn hóa ở Việt Nam

Việt Nam hiện có 28 di sản được UNESCO công nhận là di sản thế giới, trong đó có 19 di sản văn hóa (DSVH) (bao gồm 06 DSVH vật thể và 13 DSVH phi vật thể thế giới). Ngoài ra, còn có các di sản thiên nhiên và di sản tư liệu thế giới được UNESCO vinh danh. Những di sản này đã góp phần không nhỏ trong việc quảng bá hình ảnh đất nước, truyền bá các giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam đến với bạn bè quốc tế. Không chỉ dừng lại ở giá trị tinh thần mà các di sản thế giới này còn góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế – xã hội. Theo số liệu thống kê của UNESCO, mỗi năm có khoảng trên 1 tỷ lượt khách du lịch đến tham quan các khu DSVH và thiên nhiên trên thế giới 1.

Những năm qua, sự tăng trưởng số lượng khách du lịch đến với các di sản tại Việt Nam cũng có chuyển biến rõ rệt. Hiện tại, các điểm du lịch DSVH vật thể như: quần thể di tích Cố đô Huế, đô thị cổ Hội An, khu Đền tháp Thánh địa Mỹ Sơn, Thành Nhà Hồ và khu trung tâm di tích Hoàng thành Thăng Long là các điểm du lịch DSVH được nhiều du khách trong và ngoài nước tới tham quan hằng năm.

Trong thời gian đầu khi mới được công nhận DSVH, quần thể Di tích Cố đô Huế chỉ đạt vài chục nghìn lượt khách du lịch, đến nay đã thu hút hàng triệu khách tham quan, du lịch mỗi năm. Cùng với sự gia tăng về số lượng khách là nguồn thu hằng năm từ tiền bán vé tại các di sản này cũng tăng lên. Tổng thu du lịch tăng trên 5 lần, từ 96.000 tỷ đồng năm 2010 lên 720.000 tỷ đồng năm 2023, trung bình tăng 26,9%, đóng góp trên 7 – 8% GDP và tác động lan tỏa trên 13,9% GDP; tạo ra trên 1,2 triệu việc làm trực tiếp và 3,6 triệu việc làm gián tiếp 2.

Nhiều sản phẩm du lịch di sản đã trở thành thương hiệu đặc trưng cho du lịch Việt Nam. Đặc biệt, DSVH còn là yếu tố quan trọng tạo nên sự khác biệt cho hệ thống điểm đến và sản phẩm du lịch của Việt Nam, kết nối và đa dạng hóa các tuyến du lịch xuyên vùng và quốc tế.

Để đạt được những kết quả đáng khích lệ trên là nhờ công tác quản lý, tổ chức hoạt động tại các DSVH. Hầu hết các DSVH hiện đã có Ban Quản lý trực tiếp chịu trách nhiệm quản lý, điều hành các hoạt động theo Luật và quy định của Nhà nước. Trình độ, năng lực của cán bộ chuyên trách trong lĩnh vực bảo tồn, phát huy giá trị di sản cũng ngày càng nâng cao qua nhiều khóa đào tạo chuyên sâu. Quy chế quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị DSVH cũng đã được UBND các tỉnh có di sản cho xây dựng, ban hành và thực hiện từ nhiều năm qua.

Tính đến nay, các di sản thế giới đã có quy hoạch tổng thể để bảo tồn, phát huy giá trị như quần thể Di tích Cố đô Huế (giai đoạn 2010 – 2023) với tổng mức đầu tư lên đến 1.284 tỷ đồng. Vịnh Hạ Long; khu di tích Mỹ Sơn; khu phố cổ Hội An và các di sản còn lại như khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long; Thành Nhà Hồ đã triển khai xây dựng quy hoạch tổng thể. Thông qua đó, hầu hết các di sản đều đã được tu bổ, bảo quản, chống xuống cấp bằng nhiều biện pháp khác nhau, đồng thời tuyên truyền quảng bá các giá trị cũng như ý thức giữ gìn tới cộng đồng 3.

Bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác quản lý DSVH vẫn còn nhiều bất cập. Ví dụ, theo Luật Di sản năm 2001 sửa đổi năm 2009 và quy chế quản lý, bảo vệ của di sản Thành Nhà Hồ thì khu vực 1 là vùng bất khả xâm phạm. Tuy nhiên, một số hộ dân đang sinh sống trong khu vực này vẫn tiến hành xây dựng nhà ở và các công trình dân sinh, gây không ít khó khăn cho công tác quản lý di sản trên địa bàn.

Thực tế, 142 ha của di tích Thành Nội hiện nay vẫn thuộc quyền quản lý của chính quyền địa phương nhưng nhân dân vẫn canh tác, sản xuất lúa và hoa màu chính trong khu vực bảo vệ đặc biệt của di sản. Các hoạt động sản xuất nông nghiệp đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới kiến trúc khảo cổ của di sản. Vấn đề khó khăn ở đây là Trung tâm Bảo tồn di sản Thành Nhà Hồ chỉ có thể áp dụng các biện pháp quản lý theo quy chế của Luật Di sản, trong khi đó, các hoạt động dân sinh lại dựa vào Luật Đất đai và Luật Xây dựng: dân có sổ đỏ sở hữu đất đai thì có quyền tự do sử dụng đất đai và xây dựng nhà dưới ba tầng thì không cần phải xin giấy phép. Vậy là cứ mạnh ai nấy làm. Và, công tác quản lý, bảo vệ, bảo tồn di sản Thành Nhà Hồ vẫn cứ loay hoay trong một bài toán khó 4.

Bên cạnh đó là sự thiếu đồng bộ của các quy chế quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Các Trung tâm/Ban quản lý Di sản chưa tổ chức các cuộc nghiên cứu về công tác quản lý hằng năm để điều chỉnh với tình hình thực tiễn. Một số di sản như ở Hội An, Mỹ Sơn, Huế đến nay vẫn chưa có kế hoạch quản lý tổng hợp theo quy định hướng dẫn thực hiện Công ước Di sản Thế giới 1972. Những di sản khác như: Hoàng Thành Thăng Long, cố đô Huế, Thánh địa Mỹ Sơn chưa có quy chế quản lý, bảo tồn hoặc đã có nhưng chưa điều chỉnh để phù hợp với thực tế công tác quản lý những năm gần đây…

Kết cấu hạ tầng phục vụ hoạt động du lịch thiếu thốn và thiếu đồng bộ khiến nhiều di sản trở nên kém sức hút, một số di sản khác do hạ tầng và dịch vụ xung quanh vùng di sản phát triển tự do ồ ạt và thiếu quản lý của ngành và chính quyền địa phương đã gây ra sự lộn xộn, thay đổi về mặt cảnh quan xung quanh. Việc xả rác bừa bãi cũng làm môi trường xung quanh di sản bị ô nhiễm nặng nề…

Hiện nay, các DSVH phi vật thể như: tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ; Nhã nhạc cung đình Huế; không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên; ca trù; quan họ Bắc Ninh; hội Gióng ở đền Phù Đổng và Đền Sóc; hát Xoan ở Phú Thọ; nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ; dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh; nghi lễ Kéo co; thực hành tín ngưỡng thờ mẫu tam tứ phủ; nghệ thuật bài chòi Trung Bộ; hát then của người Tày, Nùng, Thái là những DSVH được UNESCO công nhận là DSVH phi vật thể của nhân loại. Mặc dù những năm qua, Đảng và Nhà nước đã hết sức quan tâm trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH phi vật thể, nhưng trên thực tế, việc bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH phi vật thể gặp rất nhiều khó khăn trong công tác tổ chức duy trì các hoạt động thực hành cũng như đào tạo, truyền nghề cho các thế hệ kế cận…

Hiện tại, chỉ có một vài điểm tham quan DSVH vật thể trên cả nước có tổ chức các hoạt động thực hành và trình diễn giới thiệu các loại hình văn hóa phi vật thể thông qua các đoàn nghệ thuật hoạt động mang tính xã hội hóa. Các hoạt động trình diễn giới thiệu văn hóa phi vật thể chỉ được thực hiện khi có yêu cầu riêng của du khách (du khách phải trả phí xem biểu diễn) cũng như thông qua các ngày lễ hội truyền thống thường niên và không mang tính liên tục tại các điểm tham quan và trong các trung tâm tổ chức sự kiện giới thiệu du lịch lớn của cả nước… Do vậy, các loại hình DSVH phi vật thể rất bị hạn chế trong việc giới thiệu và quảng bá đối với công chúng và du khách trong và ngoài nước…

Một số đánh giá xét trên góc độ quản lý bền vững và hiệu quả các di sản

Theo đánh giá chung, hiện chỉ có một số rất ít các di sản vật thể và thiên nhiên thế giới được UNESCO công nhận đang thực hiện tốt song hành hai nhiệm vụ bảo tồn và phát huy hiệu quả các giá trị di sản.

Những hạn chế, yếu kém trong nội dung quản lý DSVH đã bộc lộ khá rõ, đó là: định hướng quản lý về di sản kết hợp với hoạt động du lịch DSVH chưa rõ ràng; việc triển khai và thực thi các chính sách quản lý bền vững chưa sâu sát. Chưa gắn kết được vai trò trung tâm của cộng đồng dân cư địa phương với các di sản…; chính sách về quản lý và phát triển du lịch DSVH vẫn còn chung chung; việc kiểm tra, giám sát thực hiện quản lý còn lỏng lẻo. Công tác đánh giá và điều chỉnh chính sách không được triển khai hoặc có triển khai nhưng chỉ mang tính hình thức và không được đánh giá chi tiết, không bổ sung những thiếu sót kịp thời.

Công tác quản lý tại các di sản được UNESCO công nhận còn rất lỏng lẻo, chưa có các kế hoạch chi tiết và cụ thể trong việc duy tu bảo dưỡng, bảo tồn các DSVH vật thể. Trên thực tế, vấn đề khó khăn đặt ra hiện nay là lấy nguồn kinh phí ở đâu ngoài nguồn ngân sách hạn hẹp để duy tu, bảo dưỡng, tôn tạo và quản lý các DSVH vật thể? cũng như việc duy trì, bảo tồn và thực hành văn hóa phi vật thể.

Ngoài ra, việc khó khăn nhất hiện nay là chưa có phương hướng cụ thể để kêu gọi đầu tư các nguồn lực xã hội hóa vào các DSVH vật thể và phi vật thể để vừa có thể gìn giữ vừa có thể phát huy giá trị DSVH nhằm thu hút và phát triển các hoạt động du lịch. Hơn nữa, vai trò của cộng đồng địa phương tại nơi có các di sản chưa được các cấp chính quyền và các cơ quan chức năng quản lý di sản quan tâm và chú trọng, dẫn đến việc phát triển du lịch có thể bị chống đối hoặc phát triển mang tính tự phát, mạnh ai người đấy làm, hoạt động du lịch thiếu ý thức gây ra tổn hại đối với môi trường tự nhiên xung quanh di sản.

Có thể thấy, việc chuyển đổi các giá trị DSVH thành các sản phẩm du lịch nhằm thu hút du khách trong và ngoài nước để tự tái tạo ra nguồn ngân sách phục vụ cho chính nó hiện chưa được đầu tư triệt để, thiếu các nguồn lực và hợp tác triển khai. Vẫn còn tình trạng buông lỏng trong công tác chỉ đạo triển khai quy hoạch; kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch nói chung và du lịch DSVH nói riêng. Vai trò của Ban Chỉ đạo về phát triển du lịch DSVH còn mờ nhạt.

Ngoài ra, năng lực quản lý nhà nước về du lịch DSVH của các cấp chính quyền, địa phương nơi có di sản còn yếu kém. Chưa có chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp có thương hiệu mạnh trong lĩnh vực du lịch DSVH; chưa chú trọng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là các hộ gia đình gắn với phát triển du lịch DSVH nói riêng và du lịch nói chung.

Một số giải pháp phát triển du lịch di sản văn hóa tại Việt Nam

Một là, xây dựng mục tiêu phát triển du lịch DSVH cho cộng đồng văn hóa xã hội tại địa phương nơi có các DSVH vật thể và phi vật thể. Những mục tiêu trọng tâm phổ biến nhất sẽ là:

Ở cấp độ môi trường: giảm thiểu các tác động tiêu cực đến môi trường do du lịch (văn hóa) đem lại. Cho phép cộng đồng giới hạn sự chấp nhận có thể thay đổi môi trường của họ. Thu hút người dân địa phương lập kế hoạch và quản lý các tác động đến môi trường. Chứng minh cho người dân địa phương về sự phát triển du lịch văn hóa trong không gian chung của họ sẽ góp phần khôi phục những tác động xấu đến môi trường như là một phần của quá trình bảo tồn các DSVH. Xây dựng các chính sách bắt buộc nhằm bảo đảm các lợi ích do du lịch DSVH đem lại sẽ được trực tiếp đóng góp vào sự tái tạo môi trường và bảo tồn các di sản.

Ở cấp độ kinh tế: lồng ghép cộng đồng vào phát triển kinh tế du lịch địa phương bằng các biện pháp đào tạo, khuyến khích về tài chính, tạo các vườn ươm doanh nghiệp… Mở ra một tổ chức tiếp thị điểm đến địa phương hoặc liên kết cộng đồng với tổ chức tiếp thị điểm đến để tạo ra các lợi thế quy mô về kinh tế cho người dân. Phân tích các lợi thế kinh doanh về du lịch theo không gian và chức năng cho phép số lượng các doanh nghiệp có thể tối đa hưởng lợi về mặt kinh tế đối với di sản. Lập kế hoạch và theo dõi sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ một cách cẩn thận để tránh việc bỏ giữa chừng trong 3 năm đầu kể từ sau khi tổ chức hoạt động du lịch DSVH vật thể hoặc phi vật thể tại địa phương tiến hành.

Ở cấp độ chất lượng cuộc sống: bảo đảm quyền truy cập của người dân địa phương vào các cơ sở giải trí, di sản và phát triển du lịch như một phần của việc du lịch hóa các di sản thế giới. Quản lý các mẫu truy cập để bảo đảm khả năng tiếp cận của người dân địa phương đối với các hệ thống giao thông và các dịch vụ khác tại địa phương. Sử dụng sự hiện diện của khách du lịch để tạo ra các sự kiện và dịch vụ giải trí trong ngưỡng kinh tế tối thiểu. Giảm thiểu bất kỳ sự xao lãng tiềm năng nào đến cuộc sống hàng ngày. Giảm thiểu tối đa và loại bỏ toàn bộ những tác động gây ô nhiễm từ khách du lịch tới các di sản thế giới nói riêng và các di sản địa phương nói chung.

Ba là, các bước và thực tiễn trong quá trình xây dựng tham gia của cộng đồng địa phương trong việc phát triển du lịch tại DSVH. Xây dựng sự tham gia của cộng đồng trong việc phát triển du lịch tại DSVH thế giới nói riêng và DSVH nói chung, đòi hỏi sự tích cực tham gia bắt đầu từ giai đoạn lập kế hoạch cho đến khi thực sự vận hành địa điểm này như một điểm thu hút du lịch văn hóa. Các giai đoạn này như là một phần của quy trình lập kế hoạch. Việc thực hiện đúng sẽ bảo đảm lợi ích của cộng đồng được tích hợp tốt trong toàn bộ quá trình xây dựng, phát triển du lịch DSVH.

Hà Văn Siêu. Đổi mới trong quy hoạch phát triển du lịch Việt Nam. Website Viện Nghiên cứu phát triển Du lịch, ngày 07/02/2013. 2.Du lịch Việt Nam– Bách khoa toàn thư mở Wikipedia. 3. Vũ Tuấn Anh.Viện Kinh tế Việt Nam. Khai thác tiềm năng thiên nhiên và giá trị văn hóa truyền thống để phát triển du lịch cộng đồng ở Măng Đen. Hà Nội, 2013. 4. Michael M. Coltman.Tiếp thị du lịch. NXB Trẻ TP. Hồ Chí Minh, 1991. 5. Tourism Management at UNESCO World Heritage Sites (2023). edited by Silvia De Ascaniis, Maria Gravari-Barbas and Lorenzo Cantoni. 6. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa.

ThS. Nguyễn Phúc LưuĐại học Kinh tế – Trường Đại học Quốc gia

Cập nhật thông tin chi tiết về Sở Văn Hóa Thể Thao Và Du Lịch trên website Nhatngukohi.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!