Bạn đang xem bài viết Số Heo Con Cai Sữa Trên Suốt Vòng Đời Heo Nái được cập nhật mới nhất trên website Nhatngukohi.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Số heo con cai sữa trên suốt vòng đời heo nái – một chỉ số chưa được khám phá
Chia sẻ
Lượt xem
4160
Ecovet
-
Một trong những chỉ số nhận được nhiều sự quan tâm đó là số heo con cai sữa trên suốt vòng đời heo nái (WSL). Chỉ số này đề cập đến tổng số heo con mà heo nái đã cai sữa được trong suốt vòng đời sản xuất của chúng.
Tính toán của chỉ số này dựa trên hai biến giá trị: số lứa trung bình đẻ được trước khi loại thải và số heo con cai sữa trung bình trong mỗi lứa đẻ.
Mục đích của thông số này là để cung cấp thông tin của một con nái khi loại khỏi trang trại, nái bị chết hoặc bị bán đến lò mổ vì bất kỳ lý do gì. Chắc chắn tất cả chúng ta đều muốn rằng heo nái trong trại trước khi bị loại bỏ vì một lý do nào đó thì nó đã mang lại mức năng suất sản xuất cao nhất từ trước đến nay.
Vấn đề là đôi khi có những chỉ số khác khiến người chăn nuôi chú ý hơn, ví dụ như số heo con cai sữa/nái/năm, và vì lý do đó nên thời gian sản xuất trong suốt vòng đời của heo nái ở trang trại không được chú ý nhiều. Nhưng chúng ta không được quên rằng sau một thời gian heo nái sẽ bị giảm giá trị sản xuất, và chỉ số “số heo con cai sữa trên vòng đời một con nái” là một chỉ số tốt để người chăn nuôi hiểu sâu sắc hơn kiến thức về sự giảm giá trị sản xuất của heo nái.
Để làm rõ cho khái niệm sản xuất này, chúng tôi đang lấy ví dụ ở 2 trang trại. Bảng 1. Các chỉ số sản xuất chính trên trang trại A và B. Năm 2017.
Như thể hiện trong Bảng 1, cả hai trang trại đều có mức sản xuất rất giống nhau (heo con/heo cai sữa/heo nái/năm). Mặc dù số heo con cai sữa trung bình trên heo nái ở trang trại A cao hơn, nhưng trang trại B thì có chỉ số đẻ con cao hơn do thời gian cho con bú của heo nái ngắn hơn.
Nhìn gần hơn về sức sản xuất của heo nái bị loại thải ở cả hai trang trại trong một giai đoạn cụ thể thì một số thay đổi nhỏ sẽ tạo ra sự khác biệt lớn giữa cả hai trang trại.
Bảng 2. Những đặc điểm chính của heo nái bị chết/loại thải ở trại A và B. Năm 2017.
Bảng 3. Các đặc điểm chính của heo nái đã bán ở các trang trại A và B. Năm 2017.
Trong trường hợp heo nái được đưa đi giết mổ, thì các chỉ tiêu vẫn tương tự như trường hợp trước. Ở đây, sự khác biệt giữa số lứa đẻ trung bình của heo nái được bán ở hai trang trại thấp (chênh lệch 0,6 lứa đẻ), mặc dù số heo con cai sữa ở trang trại B cao hơn và tạo ra sự khác biệt giữa các trang trại đối với heo con cai sữa trên heo nái được bán nhưng nó vẫn cho thấy một giá trị tương tự như của heo nái bị chết.
Điều đó cho thấy rằng, nếu như vòng đời sản xuất của heo nái ở trại A giống như ở trại B thì năng suất của trại A sẽ như thế nào? Hay nói cách khác, mức độ sản xuất với số lứa đẻ trung bình cao hơn khi loại bỏ là gì?
Bảng 4. Năng suất ước tính trên trại A nếu tuổi thọ heo nái dài hơn (giống như trại B). Năm 2017
Trong tình huống này, chúng ta có thể thấy rằng heo nái sẽ được hưởng lợi nhiều hơn từ tiềm năng lớn hơn của chúng vì thời gian sản xuất dài hơn (hàm ý một số lượng lớn lứa đẻ khi loại thải) cùng với năng suất cao hơn (được gọi là số heo con cai sữa trung bình/heo nái loại thải). Cụ thể, sự khác biệt sẽ là 8,38 heo con/heo nái khi loại bỏ ở trại A hoặc trại B.
Tóm lại, chúng ta không nên chỉ tập trung vào một số chỉ số sản xuất mà bỏ qua các khía cạnh khác trong trại. Nếu chúng ta muốn hiểu sâu về trang trại thì chúng ta cần nên biết được một số chỉ số thường bị che giấu, những chỉ số đó chắc chắn cung cấp được nhiều thông tin có giá trị về năng suất heo nái, hoặc như trong trường hợp này đó là thông tin về heo nái bị đưa đi giết mổ.
Nguồn: Pig333.com Biên dịch: Ecovet Team Chia sẻ
Lượt xem
4160
Lưỡi Heo Hướng Hữu Cơ
Lưỡi heo
Trong nghệ thuật ẩm thực của Đông lẫn Tây, các món ăn được chế biến từ lưỡi của một số động vật như heo, bò, vịt… rất được ưa chuộng. Vì hương vị những món này thơm ngon, hấp dẫn và bổ dưỡng.
Vì sao lưỡi dẻo?
Cái lưỡi được cấu tạo bởi một khung lưỡi và các cơ lưỡi. Khung lưỡi gồm có xương móng và các cân là cân lưỡi và vách lưỡi. Các cơ lưỡi gồm: các cơ ở ngay trong lưỡi, là cơ dọc lưỡi trên và dưới thường bám vào khung lưỡi và tận hết trong lưỡi, cơ ngang lưỡi và cơ thẳng lưỡi. Ngoài ra, còn có các cơ ngoại lai, đi từ các bộ phận lân cận đến lưỡi như cơ cằm lưỡi, cơ móng lưỡi, cơ trâm lưỡi và cơ sụn lưỡi.
Trong cơ thể súc vật cũng như trong cơ thể người, các cơ của lưỡi thuộc loại cơ vân. Nhưng có điều đặc biệt là, chúng chỉ có một đầu bám vào xương móng mà thôi, còn đầu kia tựa vào vách lưỡi nên tha hồ mà múa máy dọc ngang. Và nhờ vậy mà cơ lưỡi tuy vận động thường xuyên nhưng vẫn giữ được “tính cách mềm dẻo” của nó.
Ở động vật có vú, lưỡi là khối cơ vân chắc, phủ ngoài bằng lớp biểu bì phân lớp, phía dưới là lớp mô liên kết. Mặt trên lưỡi có nhiều nhú cảm giác (chồi cảm giác), nhú chứa các cơ quan hóa học nhạy cảm với chất hóa học có trong dung dịch. Trên lưỡi chia thành một số vùng tương ứng với khả năng cảm giác, vị giác khác nhau. Ở đa số động vật, lưỡi gắn với phía sau khoang miệng và thò ra phía trước, cử động lên xuống, qua lại linh hoạt.
Lưỡi bổ vào đâu?
Một điều hết sức oan ức cho cái lưỡi trong câu chuyện ngụ ngôn của Ê-dốp (Lưỡi không xương trăm đường lắt léo) khiến lưỡi trở thành món ăn dở nhất trên đời. Thật ra, những món ăn được chế biến từ lưỡi chỉ từ ngon ít đến ngon nhiều mà thôi.
Theo Đông y, lưỡi có mối quan hệ mật thiết với các tạng Tâm, Tỳ, và những tạng phủ khác trong cơ thể. Gặp bác sĩ giỏi, có thể xem lưỡi bạn mà đoán biết tình trạng bệnh lý của cơ thể.
Về mặt dinh dưỡng, cơ lưỡi là cơ vân nên các thành phần dinh dưỡng của lưỡi cũng như thịt của động vật sở hữu nó.
Từ đó suy ra, theo Đông y, lưỡi heo có vị ngọt, tính ấm, tác dụng bổ Tỳ Vị, ích khí huyết, cường kiện cân cốt, sinh tân dịch, chỉ khát. Lưỡi bò rất có ích cho người bị suy nhược cơ thể, hư lao, gầy mòn, Tỳ Vị suy yếu, lưng và gối mỏi yếu, đau nhức, thủy thũng, tiêu khát. Tuy nhiên những người bị cao huyết áp, cholesterol trong máu cao, nên hạn chế ăn thịt và lưỡi bò. Và bạn cần lưu ý, theo cơ quan An toàn thực phẩm và Giám định thuộc Bộ Nông nghiệp Mỹ, phần họng gần cuống lưỡi cần phải được loại bỏ hoàn toàn. Do phần này có thể chứa chất lây nhiễm bệnh nguy hiểm, chẳng hạn như bệnh bò điên.
Tương tự, theo Đông y, lưỡi heo giúp bổ thận tư âm, bổ dưỡng can huyết, nhuận táo, nhuận da. Lưỡi heo có ích cho người thể chất hư nhược do can thận âm hư gây nên, suy nhược sau khi ốm dậy, sưng thũng…
Đinh Công Bảy
Tìm Hiểu Về Ph Dạ Dày Ở Heo
Tìm hiểu về pH dạ dày ở heo
Chia sẻ
Lượt xem
5955
pH dạ dày pH dạ dày ở động vật dạ dày đơn trưởng thành được kiểm soát bởi sự tiết HCl (axit hydrochloric) từ niêm mạc dạ dày (Kidder và Manners, 1978). HCl là chất cần thiết để kích hoạt tiêu hóa đạm bằng cách hoạt hóa pepsinogen thành pepsin, đây chính là loại protease chính của hệ tiêu hóa. Động vật trưởng thành có độ pH dạ dày tương đối thấp (2-3), ở độ pH này mầm bệnh từ thức ăn và nước uống đi vào hệ tiêu hóa gần như bị tiêu diệt hoàn toàn (Clemens và cộng sự, 1975).
Heo sơ sinh có độ pH dạ dày khá cao (5-6), do khả năng tạo ra hệ đệm mạnh của sữa non (Smith và Jones, 1963). Sự hỗ trợ này cho phép vi khuẩn từ môi trường bên ngoài đi vào dạ dày đến ruột non và ruột già để thiết lập một hệ vi sinh bình thường trong đường tiêu hóa. Thông thường, những vi khuẩn chiếm ưu thế trong dạ dày thường là vi khuẩn Lactobatẻia và Bifidobacteria, do đó đường ruột chứa một hỗn hợp các vi khuẩn (Smith và Jones, 1963). Một vài giờ sau khi heo con bú mẹ, độ pH sẽ giảm xuống 3.5 – 5 và độ pH này sẽ duy trì đến bốn tuần đầu sau khi cai sữa (Cranwell và cộng sự, 1976). Sau đó, độ pH sẽ dần dần giảm xuống đến độ pH của heo trưởng thành (2-3) kể cả khi chúng ta không cho động vật ăn thức ăn dạng rắn (Schiketanz và Richter, 1967; được trích dẫn bởi Kidder và Manners, 1978). Độ pH từ 3.5 – 5 trong dạ dày heo con bú mẹ tạo điều kiện cho sự hoạt hóa của chymosin (rennin), đây là enzyme có vai trò làm đông sữa trong dạ dày (Shen và Liechty, 2003). Nếu không có hoạt động của chymosin thì sữa sẽ đi xuống rất nhanh và hầu như không tiêu hóa vào ruột non. Mặc dù pepsin có khả năng làm đông sữa nhưng hiệu quả thấp hơn chymosin, enzyme này yếu hơn khi phân giải đạm và không tiêu hóa Ig sữa (Kidder và Manners, 1978). Độ pH thấp 3.5 – 5 cũng giúp hỗ trợ sự sản sinh của Lactobactẻia và loại trừ các vi sinh vật gây bệnh khác (Cranwell và cộng sự, 1968). Một quần thể Lactobacteria khỏe mạnh sẽ tạo ra một lượng axit lactic dồi dào giúp ổn định pH dạ dày và giảm thiểu sự tiết HCl. Do đó, khả năng tiết HCl ở những con heo bú mẹ khá hạn chế và sữa mẹ cũng không kích thích mạnh sự tiết HCl trong dạ dày heo con (Cranwell và cộng sự, 1976).
Khi cai sữa, pH dạ dày (3-4) được duy trì cao hơn mức cần thiết để tiêu hóa đạm từ thực vật hoặc động vật (nguồn đạm khác ngoài sữa), bởi vì hoạt động của pepsin mạnh nhất ở độ pH 2 và 3.5 (Kidder và Manners, 1978). Một vài loại đạm chỉ tiêu hóa được ở độ pH tối ưu thấp hơn, trong khi đó đạm trở nên khó tiêu khi độ pH lớn hơn 4. Cho heo con ăn các sản phẩm từ sữa trong khẩu phần sau cai sữa đã cho thấy có sự giảm pH trong dạ dày ở heo cai sữa so với những con heo con bú mẹ cùng lứa (Polivoda và cộng sự, 1973). Hàm lượng đạm trong khẩu phần cũng ảnh hưởng đến độ pH dạ dày, khẩu phần đạm thấp làm pH dạ dày thấp vì khả năng đệm của thức ăn thấp (Manners, 1970).
Lượng đạm không tiêu hóa ở heo con không chỉ làm giảm hiệu quả sử dụng thức ăn mà còn làm gia tăng sự phát triển hệ vi sinh nhờ sự có mặt của đạm, đặc biệt là các vi khuẩn gây bệnh cơ hội như Escherichia coli (Smith và Jone, 1963). Trong trường hợp này, heo con sẽ bị tiêu chảy, thỉnh thoảng sẽ chết nếu không được chữa trị bằng các chất kháng khuẩn (kháng sinh, kẽm oxit, đồng sunfat, axit hữu cơ và tinh dầu) nhằm kiểm soát mầm bệnh.
Người ta đã đề xuất một vài cách để phòng ngừa đạm không tiêu hóa được trên những con heo mới cai sữa. Đầu tiên, người ta khuyến nghị là cho heo con ăn khẩu phần đạm thấp với nguồn đạm dễ tiêu trong vài ngày đầu sau cai sữa. Thứ hai, nếu việc cho heo con ăn tự do gây quá tải đối với hệ tiêu hóa còn non nớt do có chứa nhiều đạm, thì nê áp dụng chế độ cho ăn hạn chế trong một khoảng thời gian giới hạn (thường là từ 2 – 5 ngày sau cai sữa là đủ). Cuối cùng, bổ sung lactic (Geary và cộng sự, 1999) và các axit khác (Mroz, 2003; Koch, 2005) trong khẩu phần sau cai sữa, phương pháp này cho thấy đã cải thiện hiệu quả động vật, phần lớn là do đặc tính kháng khuẩn của axit và chúng cũng có ảnh hưởng nhỏ đến việc giảm pH của dạ dày.
Nguồn: Applied Nutrition for Young Pigs Biên dịch: Acare VN Team
Chia sẻ
Lượt xem
5955
Năng Suất Heo Thịt: Mật Độ Nuôi Tối Ưu
Bằng cách nào để tối ưu hoá năng suất heo thịt là câu hỏi thường trực của người chăn nuôi heo. Làm sao để cùng một diện tích mà chúng ta nuôi được nhiều cá thể nhất và quan trọng là không đánh mất khả năng tăng trọng tốt nhất của chúng?
Nghiên cứu khoa học
Kết quả nghiên cứu của các bác sĩ trong Hiệp hội nuôi heo Bắc Trung Bộ (North Central Committee on Swine Management) cho thấy việc duy trì nhóm heo từ trại cai sữa đến trại thịt không ảnh hưởng đến năng suất . Nhưng mật độ nuôi ở trại heo choai, heo thịt (con số vàng ở đây là 0,54 m2/con heo) sẽ có ảnh hưởng lớn đến quá trình tăng trưởng và lượng thức ăn ăn vào.
Nhóm các nhà nghiên cứu đã nỗ lực giảm diện tích cần thiết để nuôi heo thịt nhằm duy trì đàn từ cai sữa đến nuôi thịt.
Theo kết quả cuối cùng, nếu chúng ta giảm mật độ giới hạn cho 1 con heo nuôi thịt chỉ còn 0,54m , tuy chỉ giảm chút ít so với diện tích nuôi cá thể trước đây, thì các nhà nghiên cứu đã kết luận rằng có ảnh hưởng đáng kể tới sự tăng trưởng và lượng thức ăn ăn vào. Điều này rất quan trọng!
Để nghiên cứu sự hiệu quả của việc duy trì nhóm heo cùng lứa, nhóm thí nghiệm đã chia heo con trọng lượng 55 pound (30 kg) cùng lứa vào ô chuồng với mật độ khác nhau (0,54 m /con , 0,72 m
Không gian bố trí giống như hình vẽ trên.
Bảng trên phác thảo các kết quả thí nghiệm về sự phân bố không gian và diện tích ảnh hưởng đến hiệu quả chăn nuôi heo thịt. Để tiến hành nghiên cứu thuận lợi, các chuyên gia đã trộn thức ăn với bột bắp, đậu nành để tạo thành cám hỗn hợp.
Đối với heo có thể trọng 50 ~ 80 pound (23~36 kg), 80~150 pound (36~68kg), 150~200 pound (68~90kg) và 200~250 pound (90 ~ 113 kg) bổ sung lysine với tỉ lệ 1,2 % ; 1,0 %; 0,85 % và 0,75 %.
Thời gian thí nghiệm từ ngày 0 đến ngày 118 đối với những con heo có trọng lượng từ 55 pound (30 kg) đến 250 pound (113 kg) cho thấy tăng trọng (ADG) và lượng thức ăn ăn vào (AFDI) của hai nhóm heo nuôi hỗn hợp và nuôi đống lứa không có sự khác biệt.. Điều này cho thấy khi nuôi từ heo cai sữa thành heo thịt để duy trì nhóm đồng loại không cải tiến năng suất so với nhóm nuôi hỗn hợp.
Tuy nhiên, nhìn toàn thể quá trình thí nghiệm thì thấy những con heo được bố trí với diện tích 0,54 m so với 0,72 m thì đều giảm tăng trọng bình quân ngày và lượng thức ăn ăn vào.
Tuy nhiên sự khác biệt giữa các chuồng nuôi thí nghiệm trên là tương đối ít. Kết luận của nghiên cứu này cũng giống như báo cáo khác đánh giá về diện tích thích hợp và mật độ nuôi heo thịt để nuôi heo tăng trưởng tốt nhất và có hiệu quả kinh tế thì cần bố trí heo với diện tích 0,54 m
Cập nhật thông tin chi tiết về Số Heo Con Cai Sữa Trên Suốt Vòng Đời Heo Nái trên website Nhatngukohi.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!