Xu Hướng 3/2023 # Nhận Diện Mối Quan Hệ Giữa “Xung Đột Lợi Ích” Và Tham Nhũng Hiện Nay # Top 6 View | Nhatngukohi.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Nhận Diện Mối Quan Hệ Giữa “Xung Đột Lợi Ích” Và Tham Nhũng Hiện Nay # Top 6 View

Bạn đang xem bài viết Nhận Diện Mối Quan Hệ Giữa “Xung Đột Lợi Ích” Và Tham Nhũng Hiện Nay được cập nhật mới nhất trên website Nhatngukohi.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Các quốc gia, tổ chức quốc tế cơ bản đã có sự thống nhất chung nhận định về “xung đột lợi ích” (conflict of interest). Theo từ điển Luật học tiếng Anh của Black, ” xung đột lợi ích là tình huống ảnh hưởng đến quyết định vì có xung đột giữa lợi ích của cá nhân và lợi ích công” (1). Theo từ điển tiếng Anh của Cambridge, ” xung đột lợi ích là tình huống mà một người không thể đưa ra quyết định tốt, vì bị chi phối bởi lợi ích cá nhân” (2). Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế OECD (2005), ” xung đột lợi ích là xung đột giữa chức trách nhà nước và lợi ích cá nhân của một công chức, trong đó công chức có những lợi ích ở phương diện cá nhân có thể gây ảnh hưởng không phù hợp đến kết quả thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm công chức của mình” (3). Ủy ban Độc lập chống tham nhũng (ICAC) cho rằng: ” Xung đột lợi ích xảy ra khi một công chức ở vào một vị trí bị ảnh hưởng hoặc xảy ra ảnh hưởng bởi lợi ích cá nhân của mình khi thực thi công vụ” (4). Còn theo Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI), xung đột lợi ích là ” …tình huống trong đó một cá nhân hoặc tổ chức nơi họ làm việc, có thể là chính phủ, doanh nghiệp, hãng truyền thông hoặc tổ chức xã hội dân sự, phải đối mặt với việc lựa chọn giữa trách nhiệm và yêu cầu xuất phát từ vị trí công việc của họ với những lợi ích cá nhân của chính họ” (5).

Ở Việt Nam, khái niệm về “xung đột lợi ích” cũng được nhiều công trình nghiên cứu công bố, điển hình như: Từ điển Pháp luật Anh-Việt xác định xung đột lợi ích là “…sự mâu thuẫn quyền lợi, sự không tương xứng giữa địa vị chức tước với quyền lợi cá nhân của người giữ chức vụ đó, việc sử dụng chức vụ để mưu lợi ích cá nhân“[6]. Ngoài ra, Tiến sỹ Hoàng Văn Luân cho rằng: ” Xung đột lợi ích được hiểu là sự vi phạm, xâm phạm hoặc làm tổn hại lẫn nhau giữa các lợi ích trong một quan hệ nhất định“(7). Nhóm tác giả Vũ Công Giao và Đỗ Thu Huyền xác định xung đột lợi ích là ” khả năng một cá nhân hoặc tổ chức được giao quyền lực công sử dụng vị trí công tác một cách không thích đáng để tư lợi“(8). Theo Khoản 8 Điều 3 của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, “xung đột lợi ích” là ” tình huống mà trong đó lợi ích của người có chức vụ, quyền hạn hoặc người thân thích của họ tác động hoặc sẽ tác động không đúng đến việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ “. Việc xác định được xung đột lợi ích trong phòng, chống tham nhũng và luật hóa nó sẽ góp phần quan trọng loại bỏ điều kiện và hoàn cảnh có thể dẫn đến hành vi tham nhũng.

Từ những khái niệm và phân tích nêu trên, có thể khái quát lại “xung đột lợi ích” là một tình huống có xung đột giữa lợi ích cá nhân của người ra quyết định và lợi ích công (bao hàm cả khu vực công và khu vực tư), dẫn đến khả năng người đó ra quyết định không phù hợp khi quyết định những công việc thuộc nhiệm vụ, chức trách của mình. Đặc điểm nhận diện của “xung đột lợi ích” đó chính là mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân của người được trao quyền quyết định với lợi ích công hoặc là người ra quyết định bị lợi ích cá nhân chi phối mà ra quyết định không phù hợp với nhiệm vụ, chức trách của mình.

Về chủ thể, xung đột lợi ích và tham nhũng có cùng chủ thể là người có chức vụ hoặc quyền hạn (cả khu vực công và khu vực tư). Về trạng thái, xung đột lợi ích là tình huống còn tham nhũng là hành vi. Về tính chất, xung đột lợi ích mang tính khách quan, tham nhũng là hành vi chủ quan của người có chức vụ hoặc quyền hạn. Trong tình huống xung đột lợi ích, hành vi của người có chức vụ, quyền hạn bị coi là tham nhũng khi lựa chọn lợi ích cá nhân.

Ngày 9.11, Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam phối hợp với Thanh tra Chính phủ công bố nghiên cứu, khảo sát “Kiểm soát xung đột lợi ích trong khu vực công: Quy định và thực tiễn ở Việt Nam”.

Như vậy, có thể khẳng định, xung đột lợi ích là một trong những khởi nguồn của tham nhũng. Nếu “xung đột lợi ích” không được kiểm soát thì dễ dẫn đến hành vi tham nhũng. Có thể tham khảo một số tình huống như sau:

Trường hợp thứ nhất: Xung đột lợi ích xuất hiện khi cá nhân sử dụng vị thế quyền lực công mà họ đang nắm giữ/đại diện để thúc đẩy lợi ích cá nhân của họ hoặc lợi ích của một bên khác mà họ được giao (vì quan hệ hoặc hối lộ). Ví dụ như: Cơ quan cảnh sát giao thông được giữ tiền phạt lái xe lái quá tốc độ có thể dẫn tới việc đặt giới hạn tốc độ quá thấp để tăng khả năng lái xe vi phạm (cụ thể như trên tuyến Quốc lộ 1 đoạn qua 02 tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận có đoạn giới hạn tốc độ xe ôtô là 40 km/h). Hoặc con trai lãnh đạo của Sở Xây dựng A có cổ phần ở một công ty xây dựng. Vì quan hệ cá nhân mà Tỉnh A giao các “gói thầu” xây cầu cho công ty này. Khi đó, các cây cầu được xây có thể có chi phí cao và chất lượng thấp vì công ty của “người nhà” lãnh đạo không cần làm hiệu quả nhất vẫn “trúng thầu”.

Trường hợp thứ hai: Xung đột lợi ích xuất hiện khi người có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao thực hiện một nhiệm vụ công vụ trong các cơ quan Nhà nước hoặc các tổ chức có sử dụng ngân sách Nhà nước để nhận hối lộ và cố ý làm sai, nhưng hành vi này rất tinh vi và lọt qua sự kiểm soát của các cơ quan chức năng. Ví dụ như: Sở Kế hoạch và Đầu tư B (gọi tắt cơ quan B) được giao nhiệm vụ phân bổ nguồn lực theo một tiến trình cạnh tranh, dựa trên sự xứng đáng của các bên mong muốn sử dụng nguồn lực này. Tuy nhiên, một bên (ví dụ cá nhân hoặc công ty A) gây ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định của cơ quan B bằng cách đưa hối lộ hoặc sử dụng quan hệ thân quen mang lại lợi ích cho cá nhân thành viên của cơ quan B. Khi cá nhân thành viên cơ quan B nhận “quà” họ đã đại diện một cách không công bằng cho bên tặng quà (bên A). Khi đó họ bỏ qua những nguyên tắc đánh giá, phân bổ dựa vào sự xứng đáng, hiệu quả, công bằng để trao “hợp đồng” cho bên hối lộ.

Trường hợp thứ ba: Đang diễn ra rất phổ biến, đó là hiện tượng lợi dụng chính sách cổ phần hóa để trục lợi hoặc tạo sự ảnh hưởng để trục lợi. Ví dụ như: Chuyện công ty cổ phần hóa không tặng quà mà bị người nhà lãnh đạo gọi điện ghi mua cổ phần nhưng không đóng tiền, nếu không ghi cổ phần thì quá trình cổ phần hóa cũng đổ bể, không thực hiện được. Việc này còn nghiêm trọng hơn việc nhận quà, hay “trong chuyện đấu thầu thì quan chức lập ra công ty sân sau do vợ con, người thân lãnh đạo, khi tổ chức đấu thầu ông tới dự và không cần phải nói gì, đơn vị tổ chức phải tự biết mà chấm thầu cho công ty đó nếu không muốn gặp rắc rối”. Qua ví dụ này, có thể thấy mối quan hệ giữa xung đột lợi ích và tham nhũng xảy ra trong các quan hệ kinh tế, chính trị – xã hội diễn biến rất phức tạp.

Theo nghiên cứu, khảo sát “Kiểm soát xung đột lợi ích trong khu vực công: Quy định và thực tiễn ở Việt Nam” do Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam phối hợp với Thanh tra Chính phủ được công bố ngày 09/11/2016 tại Hà Nội đã chỉ rõ: Gần 70% số doanh nghiệp và cán bộ công chức có biết rõ việc tặng, nhận quà cho rằng mục đích tặng quà chủ yếu là giúp giải quyết công việc. Cán bộ công chức và doanh nghiệp đều cảm nhận chung là tặng quà đã trở thành “trào lưu”, “thông lệ”, thậm chí “luật chơi”. Nhiều doanh nghiệp tặng quà để không bị “phân biệt đối xử” trong khi cán bộ công chức tặng quà cho cấp trên để “thể hiện sự biết điều”. Và để thắng thầu trong một dự án, có tới 38% doanh nghiệp cho rằng do chạy chọt và 50% doanh nghiệp cho rằng do ưu ái cho người thân. Đối với việc tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ, có khoảng 20% cán bộ công chức cho rằng yếu tố “con cháu và có quan hệ với lãnh đạo” là quan trọng, song có tới 35% cán bộ công chức biết rõ trường hợp lãnh đạo tuyển dụng người thân. “Có cán bộ công chức còn khẳng định tại cơ quan mình chỉ tuyển 10 người nhưng đã có tới 100 người con em trong ngành “gửi gắm” từ cấp vụ trở lên, chưa kể ngoài ngành đã tạo nên sức ép kinh khủng”.

Nhìn một cách tổng quan, xung đột lợi ích hiện nay được thể hiện dưới 04 hình thức chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, là giữa người có chức trách ra quyết định và đối tượng chịu ảnh hưởng từ quyết định đó có liên hệ với nhau thông qua việc tặng và nhận quà tặng. Người ra quyết định nhận quà tặng bằng hiện vật hoặc phi hiện vật từ đối tượng chịu ảnh hưởng của quyết định. Xung đột giữa lợi ích xuất hiện, do lợi ích cá nhân của việc nhận quà tặng với lợi ích công khi ra quyết định, dẫn đến khả năng người có trách nhiệm sẽ ra các quyết định có lợi cho đối tượng đã tặng quà.

Thứ hai, là giữa người có chức trách ra quyết định và đối tượng chịu ảnh hưởng từ quyết định đó có cùng lợi ích. Nếu đối tượng chịu ảnh hưởng của quyết định được hưởng lợi thì người ra quyết định cũng được chia sẻ lợi ích. Trường hợp này còn được gọi là nhóm lợi ích. Xung đột lợi ích xảy ra, do xung đột giữa lợi ích cá nhân của nhóm với lợi ích công khi người có chức trách ra quyết định. Tình huống này dẫn đến khả năng người được trao quyền ra quyết định có lợi cho doanh nghiệp “sân sau”, từ đó gián tiếp cũng tạo ra lợi ích cho mình.

Thứ ba, là người nắm giữ những chức trách nhất định, có khả năng khai thác các thông tin có được từ vị trí công tác để thực hiện các hành vi thu lợi cá nhân. Xung đột lợi ích xảy ra giữa lợi ích chung của việc bảo mật thông tin với lợi ích cá nhân của người nắm giữ thông tin.

Thứ tư, là người được trao quyền quyết định và các đối tượng có khả năng chịu ảnh hưởng của quyết định có mối quan hệ thân thuộc. Trong trường hợp này, xung đột lợi ích xảy ra giữa lợi ích công với lợi ích riêng của người thân. Quyết định của người được trao quyền không đem lại lợi ích riêng cho chính người ra quyết định, nhưng đem lại lợi ích riêng cho người thân của họ.

Một số giải pháp để hạn chế xung đột lợi ích góp phần phòng, ngừa tham nhũng tại Việt Nam hiện nay

Nhằm hạn chế xung đột lợi ích góp phần phòng, ngừa tham nhũng, việc thiết kế thể chế và xây dựng văn hóa đang trở nên hết sức quan trọng tại Việt Nam hiện nay. Một số nước trên thế giới đã thiết kế thể chế riêng để kiểm soát quyền lực, phát hiện xung đột lợi ích, tham nhũng rất thành công như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore… Việc xây dựng văn hóa phải được tiến hành song song với thiết kế thể chế. Bởi vì, thể chế và văn hóa như hai mặt của một đồng xu, tương tác và quyết định hình thức tồn tại của nhau. Khi nhà nước hoạt động vì công lợi, loại bỏ lợi ích nhóm và tham nhũng thì người dân sẽ tin vào các chính sách và tuân thủ pháp luật. Khi đó xã hội xây dựng được văn hóa coi trọng lợi ích công. Điều này tạo cơ sở để toàn xã hội vận hành trơn tru, hiệu quả và hướng tới mục đích chung. Ngược lại, khi nhà nước hoạt động phục vụ cho lợi ích của một nhóm cầm quyền và gây hại cho công lợi thì người dân sẽ không tin vào nhà nước, không tuân thủ chính sách và coi thường pháp luật. Khi đó xã hội không tuân thủ pháp luật, bạo lực sẽ phân tán và xã hội sẽ rối loạn, văn hóa bị suy đồi.

Để hạn chế xung đột lợi ích góp phần phòng, ngừa tham nhũng tại Việt Nam hiện nay, thiết nghĩ cần có một số giải pháp cụ thể như:

Một là, cần đẩy mạnh việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức chung của cán bộ, công chức, người dân và doanh nghiệp về xung đột lợi ích. Hiểu và nhận thức đầy đủ tác hại khi có xung đột lợi ích xảy ra nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, giảm tính hiệu quả trong các quyết định phân bổ nguồn lực, làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào chính quyền, làm cho tình trạng tham nhũng càng trở nên khó kiểm soát và khó xử lý hiệu quả.

Trước hết, phải đẩy nhanh việc truyền thông, kết hợp lồng ghép tình huống xung đột lợi ích và hướng dẫn về phát hiện, phòng ngừa, ứng phó các tình huống xung đột lợi ích vào chương trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức và sinh viên các trường Đại học. Đối với doanh nghiệp, việc phòng ngừa, giải quyết các tình huống xung đột lợi ích cũng cần được lồng ghép vào quy tắc ứng xử trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và coi đây như là một nội dung trong chương trình tăng cường liêm chính trong hoạt động kinh doanh.

Hai là, thực hiện nghiêm quy định pháp luật về kiểm soát xung đột lợi ích đã được đề cập đến trong Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018. Việc quy định xung đột lợi ích và kiểm soát xung đột lợi ích trong Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã khẳng định kiểm soát xung đột lợi ích là công cụ quan trọng nhằm phòng, chống tham nhũng hiệu quả, đảm bảo sự thống nhất trong nhận thức về xung đột lợi ích và kiểm soát xung đột lợi ích, thống nhất về cơ chế kiểm soát, các biện pháp áp dụng, tổ chức thực hiện pháp luật về phòng ngừa, phát hiện và kiểm soát xung đột lợi ích.

Có thể khẳng định, kiểm soát xung đột lợi ích là công việc khó khăn, phức tạp và hết sức nhạy cảm bởi nó đụng chạm đến lợi ích cá nhân của người chịu sự kiểm soát. Hạn chế lợi ích cá nhân của người chịu sự kiểm soát đến đâu cho hợp lý là vấn đề chính trị, pháp lý phụ thuộc vào thể chế chính trị, truyền thống văn hóa và trình độ phát triển của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam./.

Nhận Diện Mối Quan Hệ Giữa “Xung Đột Lợi Ích” Và Tham Nhũng Hiện Nay

Các quốc gia, tổ chức quốc tế cơ bản đã có sự thống nhất chung nhận định về “xung đột lợi ích” (conflict of interest). Theo từ điển Luật học tiếng Anh của Black, “xung đột lợi ích là tình huống ảnh hưởng đến quyết định vì có xung đột giữa lợi ích của cá nhân và lợi ích công”(1). Theo từ điển tiếng Anh của Cambridge, “xung đột lợi ích là tình huống mà một người không thể đưa ra quyết định tốt, vì bị chi phối bởi lợi ích cá nhân”(2). Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế OECD (2005), “xung đột lợi ích là xung đột giữa chức trách nhà nước và lợi ích cá nhân của một công chức, trong đó công chức có những lợi ích ở phương diện cá nhân có thể gây ảnh hưởng không phù hợp đến kết quả thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm công chức của mình”(3). Ủy ban Độc lập chống tham nhũng (ICAC) cho rằng: “Xung đột lợi ích xảy ra khi một công chức ở vào một vị trí bị ảnh hưởng hoặc xảy ra ảnh hưởng bởi lợi ích cá nhân của mình khi thực thi công vụ”(4). Còn theo Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI), xung đột lợi ích là “…tình huống trong đó một cá nhân hoặc tổ chức nơi họ làm việc, có thể là chính phủ, doanh nghiệp, hãng truyền thông hoặc tổ chức xã hội dân sự, phải đối mặt với việc lựa chọn giữa trách nhiệm và yêu cầu xuất phát từ vị trí công việc của họ với những lợi ích cá nhân của chính họ”(5).

Ở Việt Nam, khái niệm về “xung đột lợi ích” cũng được nhiều công trình nghiên cứu công bố, điển hình như: Từ điển Pháp luật Anh-Việt xác định xung đột lợi ích là “…sự mâu thuẫn quyền lợi, sự không tương xứng giữa địa vị chức tước với quyền lợi cá nhân của người giữ chức vụ đó, việc sử dụng chức vụ để mưu lợi ích cá nhân”[6]. Ngoài ra, Tiến sỹ Hoàng Văn Luân cho rằng: “Xung đột lợi ích được hiểu là sự vi phạm, xâm phạm hoặc làm tổn hại lẫn nhau giữa các lợi ích trong một quan hệ nhất định”(7). Nhóm tác giả Vũ Công Giao và Đỗ Thu Huyền xác định xung đột lợi ích là “khả năng một cá nhân hoặc tổ chức được giao quyền lực công sử dụng vị trí công tác một cách không thích đáng để tư lợi”(8). Theo Khoản 8 Điều 3 của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, “xung đột lợi ích” là “tình huống mà trong đó lợi ích của người có chức vụ, quyền hạn hoặc người thân thích của họ tác động hoặc sẽ tác động không đúng đến việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ”. Việc xác định được xung đột lợi ích trong phòng, chống tham nhũng và luật hóa nó sẽ góp phần quan trọng loại bỏ điều kiện và hoàn cảnh có thể dẫn đến hành vi tham nhũng.

Từ những khái niệm và phân tích nêu trên, có thể khái quát lại “xung đột lợi ích” là một tình huống có xung đột giữa lợi ích cá nhân của người ra quyết định và lợi ích công (bao hàm cả khu vực công và khu vực tư), dẫn đến khả năng người đó ra quyết định không phù hợp khi quyết định những công việc thuộc nhiệm vụ, chức trách của mình. Đặc điểm nhận diện của “xung đột lợi ích” đó chính là mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân của người được trao quyền quyết định với lợi ích công hoặc là người ra quyết định bị lợi ích cá nhân chi phối mà ra quyết định không phù hợp với nhiệm vụ, chức trách của mình.

Mối quan hệ giữa xung đột lợi ích và tham nhũng

Về chủ thể, xung đột lợi ích và tham nhũng có cùng chủ thể là người có chức vụ hoặc quyền hạn (cả khu vực công và khu vực tư). Về trạng thái, xung đột lợi ích là tình huống còn tham nhũng là hành vi. Về tính chất, xung đột lợi ích mang tính khách quan, tham nhũng là hành vi chủ quan của người có chức vụ hoặc quyền hạn. Trong tình huống xung đột lợi ích, hành vi của người có chức vụ, quyền hạn bị coi là tham nhũng khi lựa chọn lợi ích cá nhân.

Hội thảo về Kiểm soát xung đột do Thanh tra Chính phủ phối hợp với Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam tổ chức (năm 2016)

Ngày 9.11, Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam phối hợp với Thanh tra Chính phủ công bố nghiên cứu, khảo sát “Kiểm soát xung đột lợi ích trong khu vực công: Quy định và thực tiễn ở Việt Nam”.

Như vậy, có thể khẳng định, xung đột lợi ích là một trong những khởi nguồn của tham nhũng. Nếu “xung đột lợi ích” không được kiểm soát thì dễ dẫn đến hành vi tham nhũng. Có thể tham khảo một số tình huống như sau:

Trường hợp thứ nhất: Xung đột lợi ích xuất hiện khi cá nhân sử dụng vị thế quyền lực công mà họ đang nắm giữ/đại diện để thúc đẩy lợi ích cá nhân của họ hoặc lợi ích của một bên khác mà họ được giao (vì quan hệ hoặc hối lộ). Ví dụ như: Cơ quan cảnh sát giao thông được giữ tiền phạt lái xe lái quá tốc độ có thể dẫn tới việc đặt giới hạn tốc độ quá thấp để tăng khả năng lái xe vi phạm (cụ thể như trên tuyến Quốc lộ 1 đoạn qua 02 tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận có đoạn giới hạn tốc độ xe ôtô là 40 km/h).  Hoặc con trai lãnh đạo của Sở Xây dựng A có cổ phần ở một công ty xây dựng. Vì quan hệ cá nhân mà Tỉnh A giao các “gói thầu” xây cầu cho công ty này. Khi đó, các cây cầu được xây có thể có chi phí cao và chất lượng thấp vì công ty của “người nhà” lãnh đạo không cần làm hiệu quả nhất vẫn “trúng thầu”.

Trường hợp thứ hai: Xung đột lợi ích xuất hiện khi người có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao thực hiện một nhiệm vụ công vụ trong các cơ quan Nhà nước hoặc các tổ chức có sử dụng ngân sách Nhà nước để nhận hối lộ và cố ý làm sai, nhưng hành vi này rất tinh vi và lọt qua sự kiểm soát của các cơ quan chức năng. Ví dụ như: Sở Kế hoạch và Đầu tư B (gọi tắt cơ quan B) được giao nhiệm vụ phân bổ nguồn lực theo một tiến trình cạnh tranh, dựa trên sự xứng đáng của các bên mong muốn sử dụng nguồn lực này. Tuy nhiên, một bên (ví dụ cá nhân hoặc công ty A) gây ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định của cơ quan B bằng cách đưa hối lộ hoặc sử dụng quan hệ thân quen mang lại lợi ích cho cá nhân thành viên của cơ quan B. Khi cá nhân thành viên cơ quan B nhận “quà” họ đã đại diện một cách không công bằng cho bên tặng quà (bên A). Khi đó họ bỏ qua những nguyên tắc đánh giá, phân bổ dựa vào sự xứng đáng, hiệu quả, công bằng để trao “hợp đồng” cho bên hối lộ.

Trường hợp thứ ba: Đang diễn ra rất phổ biến, đó là hiện tượng lợi dụng chính sách cổ phần hóa để trục lợi hoặc tạo sự ảnh hưởng để trục lợi. Ví dụ như: Chuyện công ty cổ phần hóa không tặng quà mà bị người nhà lãnh đạo gọi điện ghi mua cổ phần nhưng không đóng tiền, nếu không ghi cổ phần thì quá trình cổ phần hóa cũng đổ bể, không thực hiện được. Việc này còn nghiêm trọng hơn việc nhận quà, hay “trong chuyện đấu thầu thì quan chức lập ra công ty sân sau do vợ con, người thân lãnh đạo, khi tổ chức đấu thầu ông tới dự và không cần phải nói gì, đơn vị tổ chức phải tự biết mà chấm thầu cho công ty đó nếu không muốn gặp rắc rối”. Qua ví dụ này, có thể thấy mối quan hệ giữa xung đột lợi ích và tham nhũng xảy ra trong các quan hệ kinh tế, chính trị – xã hội diễn biến rất phức tạp.

Theo nghiên cứu, khảo sát “Kiểm soát xung đột lợi ích trong khu vực công: Quy định và thực tiễn ở Việt Nam” do Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam phối hợp với Thanh tra Chính phủ được công bố ngày 09/11/2016 tại Hà Nội đã chỉ rõ: Gần 70% số doanh nghiệp và cán bộ công chức có biết rõ việc tặng, nhận quà cho rằng mục đích tặng quà chủ yếu là giúp giải quyết công việc. Cán bộ công chức và doanh nghiệp đều cảm nhận chung là tặng quà đã trở thành “trào lưu”, “thông lệ”, thậm chí “luật chơi”. Nhiều doanh nghiệp tặng quà để không bị “phân biệt đối xử” trong khi cán bộ công chức tặng quà cho cấp trên để “thể hiện sự biết điều”. Và để thắng thầu trong một dự án, có tới 38% doanh nghiệp cho rằng do chạy chọt và 50% doanh nghiệp cho rằng do ưu ái cho người thân. Đối với việc tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ, có khoảng 20% cán bộ công chức cho rằng yếu tố “con cháu và có quan hệ với lãnh đạo” là quan trọng, song có tới 35% cán bộ công chức biết rõ trường hợp lãnh đạo tuyển dụng người thân. “Có cán bộ công chức còn khẳng định tại cơ quan mình chỉ tuyển 10 người nhưng đã có tới 100 người con em trong ngành “gửi gắm” từ cấp vụ trở lên, chưa kể ngoài ngành đã tạo nên sức ép kinh khủng”.

Nhìn một cách tổng quan, xung đột lợi ích hiện nay được thể hiện dưới 04 hình thức chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, là giữa người có chức trách ra quyết định và đối tượng chịu ảnh hưởng từ quyết định đó có liên hệ với nhau thông qua việc tặng và nhận quà tặng. Người ra quyết định nhận quà tặng bằng hiện vật hoặc phi hiện vật từ đối tượng chịu ảnh hưởng của quyết định. Xung đột giữa lợi ích xuất hiện, do lợi ích cá nhân của việc nhận quà tặng với lợi ích công khi ra quyết định, dẫn đến khả năng người có trách nhiệm sẽ ra các quyết định có lợi cho đối tượng đã tặng quà.

Thứ hai, là giữa người có chức trách ra quyết định và đối tượng chịu ảnh hưởng từ quyết định đó có cùng lợi ích. Nếu đối tượng chịu ảnh hưởng của quyết định được hưởng lợi thì người ra quyết định cũng được chia sẻ lợi ích. Trường hợp này còn được gọi là nhóm lợi ích. Xung đột lợi ích xảy ra, do xung đột giữa lợi ích cá nhân của nhóm với lợi ích công khi người có chức trách ra quyết định. Tình huống này dẫn đến khả năng người được trao quyền ra quyết định có lợi cho doanh nghiệp “sân sau”, từ đó gián tiếp cũng tạo ra lợi ích cho mình.

Thứ ba, là người nắm giữ những chức trách nhất định, có khả năng khai thác các thông tin có được từ vị trí công tác để thực hiện các hành vi thu lợi cá nhân. Xung đột lợi ích xảy ra giữa lợi ích chung của việc bảo mật thông tin với lợi ích cá nhân của người nắm giữ thông tin.

Thứ tư, là người được trao quyền quyết định và các đối tượng có khả năng chịu ảnh hưởng của quyết định có mối quan hệ thân thuộc. Trong trường hợp này, xung đột lợi ích xảy ra giữa lợi ích công với lợi ích riêng của người thân. Quyết định của người được trao quyền không đem lại lợi ích riêng cho chính người ra quyết định, nhưng đem lại lợi ích riêng cho người thân của họ.

Một số giải pháp để hạn chế xung đột lợi ích góp phần phòng, ngừa tham nhũng tại Việt Nam hiện nay

Nhằm hạn chế xung đột lợi ích góp phần phòng, ngừa tham nhũng, việc thiết kế thể chế và xây dựng văn hóa đang trở nên hết sức quan trọng tại Việt Nam hiện nay. Một số nước trên thế giới đã thiết kế thể chế riêng để kiểm soát quyền lực, phát hiện xung đột lợi ích, tham nhũng rất thành công như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore… Việc xây dựng văn hóa phải được tiến hành song song với thiết kế thể chế. Bởi vì, thể chế và văn hóa như hai mặt của một đồng xu, tương tác và quyết định hình thức tồn tại của nhau. Khi nhà nước hoạt động vì công lợi, loại bỏ lợi ích nhóm và tham nhũng thì người dân sẽ tin vào các chính sách và tuân thủ pháp luật. Khi đó xã hội xây dựng được văn hóa coi trọng lợi ích công. Điều này tạo cơ sở để toàn xã hội vận hành trơn tru, hiệu quả và hướng tới mục đích chung. Ngược lại, khi nhà nước hoạt động phục vụ cho lợi ích của một nhóm cầm quyền và gây hại cho công lợi thì người dân sẽ không tin vào nhà nước, không tuân thủ chính sách và coi thường pháp luật. Khi đó xã hội không tuân thủ pháp luật, bạo lực sẽ phân tán và xã hội sẽ rối loạn, văn hóa bị suy đồi.

Để hạn chế xung đột lợi ích góp phần phòng, ngừa tham nhũng tại Việt Nam hiện nay, thiết nghĩ cần có một số giải pháp cụ thể như:

Một là, cần đẩy mạnh việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức chung của cán bộ, công chức, người dân và doanh nghiệp về xung đột lợi ích. Hiểu và nhận thức đầy đủ tác hại khi có xung đột lợi ích xảy ra nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, giảm tính hiệu quả trong các quyết định phân bổ nguồn lực, làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào chính quyền, làm cho tình trạng tham nhũng càng trở nên khó kiểm soát và khó xử lý hiệu quả.

Trước hết, phải đẩy nhanh việc truyền thông, kết hợp lồng ghép tình huống xung đột lợi ích và hướng dẫn về phát hiện, phòng ngừa, ứng phó các tình huống xung đột lợi ích vào chương trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức và sinh viên các trường Đại học. Đối với doanh nghiệp, việc phòng ngừa, giải quyết các tình huống xung đột lợi ích cũng cần được lồng ghép vào quy tắc ứng xử trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và coi đây như là một nội dung trong chương trình tăng cường liêm chính trong hoạt động kinh doanh.

Hai là, thực hiện nghiêm quy định pháp luật về kiểm soát xung đột lợi ích đã được đề cập đến trong Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018. Việc quy định xung đột lợi ích và kiểm soát xung đột lợi ích trong Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã khẳng định kiểm soát xung đột lợi ích là công cụ quan trọng nhằm phòng, chống tham nhũng hiệu quả, đảm bảo sự thống nhất trong nhận thức về xung đột lợi ích và kiểm soát xung đột lợi ích, thống nhất về cơ chế kiểm soát, các biện pháp áp dụng, tổ chức thực hiện pháp luật về phòng ngừa, phát hiện và kiểm soát xung đột lợi ích.

 Có thể khẳng định, kiểm soát xung đột lợi ích là công việc khó khăn, phức tạp và hết sức nhạy cảm bởi nó đụng chạm đến lợi ích cá nhân của người chịu sự kiểm soát. Hạn chế lợi ích cá nhân của người chịu sự kiểm soát đến đâu cho hợp lý là vấn đề chính trị, pháp lý phụ thuộc vào thể chế chính trị, truyền thống văn hóa và trình độ phát triển của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam./. 

Luật gia – Ths. Lê Quang Kiệm

Thanh tra tỉnh Đồng Nai

(1) Xem Blacks Law Dictionary, https://thelawdictionary.org/conflict-of-interest/;

(2) Xem Cambridge Dictionary, https://dictionary.cambridge.org/vi/dictionary/english/conflict-of-interest;

(3) OECD (2005), Managing Conflict of Interest in the Public Sector, tr. 13;

(4) Xem Ngân hàng Thế giới & Thanh tra Chính phủ (2016), Kiểm soát xung đột lợi ích trong lĩnh vực công: Quy định và thực tiễn ở Việt Nam, NXB Hồng Đức, Hà Nội, tr. 23;

(5) Xem: ICAC (2014): Managing Conflict of Interest in the Public Sector Guidelines, tr.1, tại: http://www.icac.nsw.gov.au;

(6) Vũ Mạnh Hùng, Nguyễn Đăng Dung, Vũ Trọng Khải, Phan Thăng:  “Từ điển pháp luật Anh – Việt”, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, tr.318;

(7) TS Hoàng Văn Luân: “Quản trị xung đột lợi ích – các lý thuyết và vấn đề đặt ra ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị số 6-2014;

 (8) Vũ Công Giao, Đỗ Thu Huyền: “Kinh nghiệm quốc tế về phòng ngừa, quản lý xung đột lợi ích của thế giới”, Tạp chí Nội chính, số 31 tháng 3/2016.

Mối Quan Hệ Đại Diện (Agency Relationship) Là Gì? Xung Đột Lợi Ích Trong Mối Quan Hệ Đại Diện

Khái niệm

Mối quan hệ đại diện trong tiếng Anh là Agency relationship.

Mối quan hệ đại diện xuất hiện bất cứ khi một người nào đó (người chủ) kí hợp đồng với người khác (người đại diện) để thực hiện các công việc thay cho người chủ và đại diện cho lợi ích của người chủ. Trong mối quan hệ đại diện, người đại diện có quyền đưa ra các quyết định thay cho người chủ. Vấn đề phát sinh khi người đại diện không có cùng lợi ích với người chủ.

Xung đột lợi ích trong mối quan hệ đại diện

Trong doanh nghiệp, xung đột lợi ích thường xuất hiện, đặc biệt là giữa chủ sở hữu và người quản lí. Ở Mỹ, các công ty cổ phần nhận được rất nhiều sự chú ý vì hình thức tổ chức dạng công ty cổ phần là phổ biến. Trong một công ty cổ phần lớn, chúng ta thường thấy có sự tách rời quyền sở hữu công ty và họ lựa chọn ban giám đốc, là người điều hành hoạt động của công ty. Lí thuyết đại diện có ý nghĩa quan trọng đối với cấu trúc của một công ty cổ phần bởi vấn đề đại diện – sở hữu giữa các nhà quản lí và cổ đông.

Do qui mô lớn của các công ty cổ phần hiện đại và có hàng ngàn cổ đông, nên sự tương tác hàng ngày giữa chủ sở hữu và người quản lí là không thực tế. Ví dụ, lấy trường hợp của công ty Coca Cola, là tập đoàn sản xuất một trong những sản phẩm dễ nhận biết nhất trên thế giới.

Trong năm 2008, giá trị thị trường của công ty là hơn 100 tỉ USD và công ty có hơn 300,000 cổ đông. Rõ ràng, các nhà quản lí không thể thường xuyên gặp gỡ với tất cả các người chủ sở hữu. Khoảng một nửa số cổ phiếu được nắm giữ bởi các nhà đầu tư tổ chức. Thậm chí việc gặp gỡ thường xuyên giữa các nhà quản lí và các tổ chức này cũng không khả thi vì con số này vượt quá 1,000 tổ chức. Việc tách biệt quyền sở hữu và quyền quản lí có thể mang lại sự phồn vinh cho doanh nghiệp nếu các nhà quản lí thực sự hành động vì lợi ích tốt nhất của cổ đông.

Nhiều lí thuyết tài chính đã tập trung vào việc làm thế nào để thiết kế một hợp đồng thù lao tối ưu (optimal compensation contract) nhằm hòa hợp lợi ích giữa các cổ đông và nhà quản lí. Thiết kế tốt nhất của một hợp đồng phụ thuộc vào nhiều yếu tố bao gồm liệu có nên giám sát hành động của nhà quản lí, mức độ bất cân xứng thông tin giữa các nhà quản lí và cổ đông, sự tương xứng với kết quả kinh doanh, và sự khác nhau trong thời gian tham gia vào công ty giữa nhà quản lí và cổ đông.

Để khuyến khích các nhà quản lí, người sở hữu phải đưa ra bao gồm cả phần thưởng và hình phạt trong hợp đồng thù lao, được gọi là “củ cà rốt và cây gậy – carrots and sticks)

Trình Bày Mối Quan Hệ Giữa Adn Arn Và Protein

Trong chương trình sinh học THCS, gen và tính trạng là một chuyên đề khó. Các câu hỏi thường gặp như trình bày mối quan hệ giữa adn arn và protein? So sánh nguyên tắc tổng hợp adn và arn? Để hỗ trợ các bạn trong quá trình học tập, bài viết sau đây của chúng tôi sẽ hướng dẫn cụ thể các bước trình bày mối quan hệ giữa adn arn và protein.

Trình bày mối quan hệ giữa adn arn và protein – mối quan hệ giữa arn và protein

Để trình bày mối quan hệ giữa adn arn và protein trước tiên chúng ta cần tìm hiểu mối quan hệ giữa arn và protenin. mARN là một thành phần quan trọng tham gia vào quá trình tổng hợp protein. Vậy chức năng của m ARN và các thành phần khác trong chuỗi axitamin là gì?

ARN thông tin (mARN): là dạng trung gian trong mối quan hệ giữa arn và protein, có chức năng truyền đạt thông tin di truyền từ ADN đến ribôxôm

ARN ribôxôm (rARN): đây thành phần cấu tạo nên ribôxôm

ARN vận chuyển (tARN): có chức năng vận chuyển axitamin tới nơi tổng hợp protein

Quá trình tổng hợp aa được tổng hợp tóm tắt với các bước sau:

mARN đến riboxom để tổng hợp protein

tARN đi vào ribôxôm, một đầu mang bộ 3 đối mã khớp bộ 3 mã sao trên mARN theo nguyên tắc bổ sung tạo thành 1 aa

Ribôxôm trượt dần trên các bộ 3 mã sao của mARN, khi hết chiều dài của một mARN thì một phân tử protein được tạo thành

Bộ 3 kết thúc không có aa đi vào

Bản chất của mối quan hệ giữa gen và arn thể hiện ở việc trình tự các nuclêôtit trên gen (một đoạn ADN) sẽ quy định trình tự các nuclêôtit trong phân tử mARN

Có thể thấy rằng, cơ chế tổng hợp adn arn và protein dựa trên nguyên tắc bổ sung. ntbs được biểu hiện trong mối quan hệ ADN – ARN – Protein như sau:

Trong mối liên hệ adn, arn và protein chúng ta cũng có mối quan hệ giữa gen và tính trạng được biểu hiện qua sơ đồ Gen ( một đoạn ADN) → mARN → Protein → tính trạng

Trình tự các nuclêôtit trong mạch mARN phụ thuộc vào trình tự của các nuclêôtit trong mạch khuôn ADN

Trình tự sắp xếp các axit amin trong protein phụ thuộc vào trình tự của các nuclêôtit

Prôtêin tham gia trực tiếp vào cấu trúc hoạt động sinh lí của tế bào, từ đó biểu hiện thành tính trạng của cơ thể.

Mối Quan Hệ Giữa Cơ Sở Hạ Tầng Và Kiến Trúc Thượng Tầng

Cơ sở hạ tầng là gì? Kiến trúc thượng tầng của xã hội là gì? Đặc điểm và tính chất của chúng là gì và mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng như thế nào? Hãy tìm câu trả lời trong bài viết này của Luận Văn Việt.

Đúng vậy, mỗi một hình thái kinh tế – xã hội có một kết cấu kinh tế đặc trưng là cơ sở hiện thực của xã hội, hình thành một cách quan trong quá trình sản xuất vật chất xã hội. Nó bao gồm không chỉ những quan hệ trực tiếp giữa người với người trong sản xuất vật chất mà nó còn bao gồm cả những quan hệ kinh tế, trao đổi trong quá trình tái sản xuất ra đời sống vật chất của con người.

2. Đặc điểm và tính chất của cơ sở hạ tầng

Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể thường bao gồm: kiểu quan hệ sản xuất thống trị trong nền kinh tế. Đồng thời trong mỗi cơ sở hạ tầng xã hội còn có những quan hệ sản xuất khác như: dấu vết, tàn trữ quan hệ sản xuất cũ và mầm mống, tiền đề của quan hệ sản xuất mới.

Cuộc sống của xã hội cụ thể được đặt trong trước hết bởi kiểu quan hệ sản xuất thống trị tiêu biểu cho cuộc sống ấy và những quan hệ sản xuất quá độ, hay những tàn dư cũ, mầm mống mới có vai trò nhất định giữa chúng tuy có khác nhau nhưng không tách rời nhau vừa đấu tranh với nhau, vừa liên hệ với nhau và hình thành cơ sở hạ tầng của mỗi xã hội cụ thể ở mỗi giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử.

Ví dụ như: Trong xã hội phong kiến ngoài quan hệ sản xuất phong kiến chiếm địa vị thống trị, nó còn có quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội chiếm hữu nô lệ, mầm mống của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và chính 3 yếu tố đó cấu thành nên cơ sở hạ tầng phong kiến.

Đặc trưng cho tính chất của một cơ sở hạ tầng là do quan hệ sản xuất thống trị quy định. Quan hệ sản xuất thống trị quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng chung của toàn bộ đời sống kinh tế – xã hội. Quy định tính chất cơ bản của toàn bộ cơ sở hạ tầng xã hội đương thời mặc dù quan hệ tàn dư, mầm mống có vị trí không đáng kể trong xã hội có nền kinh tế xã hội phát triển đã trưởng thành, nhưng lại có vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của xã hội đang ở giai đoạn mang tính chất quá độ.

Cơ sở hạ tầng mang tính chất đối kháng tồn tại trong xã hội mà dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Tính chất đối kháng của cơ sở hạ tầng được bắt nguồn từ những mâu thuẫn nội tại không thể điều hoà được trong cơ sở hạ tầng đó và do bản chất của kiểu quan hệ sản xuất thống trị quy định. Đó là sự biểu hiện của sự đối lập về lợi ích kinh tế giữa các tập đoàn người trong xã hội.

Như vậy, cơ sở hạ tầng là tổng thể và mâu thuẫn rất phức tạp, là quan hệ vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức con người. Nó được hình thành trong quá trình sản xuất vật chất và trực tiếp biến đổi theo sự tác động và phát triển của lực lượng sản xuất.

Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm: chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học, tôn giáo, nghệ thuật… với những thể chế tương ứng: nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể… được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.

Bởi vậy, kiến trúc thượng tầng là những hiện tượng xã hội, biểu hiện tập trung đời sống tinh thần của xã hội, là bộ mặt tinh thần tư tưởng của hình thái kinh tế -xã hội. Nó đóng vai trò quan trọng cùng các bộ phận khác trong xã hội hợp thành cơ cấu hoàn chỉnh của hình thái kinh tế-xã hội.

4. Đặc điểm và tính chất của kiến trúc thượng tầng

Như vậy, các bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều ra đời và có vai trò nhất định trong việc tạo nên bộ mặt tinh thần, tư tưởng của xã phát triển trên một cơ sở hạ tầng nhất định, là phản ánh cơ sở hạ tầng.

Kiến trúc thượng tầng của xã hội có đối kháng giai cấp mang tính giai cấp sâu sắc. Tính giai cấp của kiến trúc thượng tầng biểu hiện ở sự đối địch về quan điểm, tư tưởng và các cuộc đấu tranh về tư tưởng của các giai cấp đối kháng.

Bộ phận có quyền lực mạnh nhất của kiến trúc thượng tầng của xã hội có tính chất đối kháng giai cấp là nhà nước – Đây là công cụ của giai cấp thống trị tiêu biểu cho xã hội về mặt pháp lý – chính trị.

Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNCS, những tàn dư tư tưởng của các giai cấp thống trị bóc lột vẫn còn tồn tại trong kiến trúc thượng tầng. Vì vậy, trong kiến trúc thượng tầng của các nước xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ này vẫn còn sự đấu tranh giữa tư tưởng xã hội chủ nghĩa với những tàn dư tư tưởng khác. Chỉ đến chủ nghĩa cộng sản, tính giai cấp của giai cấp của giai cấp thượng tầng mới bị xoá bỏ.

Theo như quan điểm của chủ nghĩa duy tâm thì nhà nước và pháp luật quyết định quan hệ kinh tế, ý thức tư tưởng quyết định tiến trình phát triển của xã hội. Theo chủ nghĩa duy vật, kinh tế là yếu tố duy nhất quyết định còn ý thức tư tưởng, chính trị không có vai trò gì đối với tiến bộ xã hội.

Nhưng theo chủ nghĩa Mác- Lê nin, đã khẳng định: Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có quan hệ biện chứng không tách rời nhau, trong đó có cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định kiến trúc thượng tầng. Còn kiến trúc thượng tầng là phản ánh cơ sở hạ tầng, nhưng nó có vai trò tác động trở lại to lớn đối với cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.

Trong sự thống nhất biện chứng này, sự phát triển của cơ sở hạ tầng đóng vai trò với kiến trúc thượng tầng. Kiến trúc thượng tầng phải phù hợp với tính chất trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng hay cơ sở hạ tầng nào thì kiến trúc thượng tầng ấy.

Sự biến đổi giữa hai yếu tố này cũng tuân theo mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng diễn ra theo hai hướng:

Một là: sự phát triển hoặc giảm đi về lượng dẫn đến sự biến đổi ngay về chất.

Hai là: sự tăng hay giảm về lượng không làm cho chất thay đổi ngay mà thay đổi dần dần từng phần từng bước.

Theo quy luật này thì quá trình biến đổi giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng diễn ra như sau:

Cơ sở hạ tầng ở mỗi giai đoạn lịch sử lại mâu thuẫn phủ định lẫn nhau dẫn đến quá trình đào thải. Mác nói: “nếu không có phủ định những hình thức tồn tại đã có trước thì không thể có sự phát triển trong bất cứ lĩnh vực nào”. Chính vì cơ sở hạ tầng cũ được thay thế bằng cơ sở hạ tầng mới bao hàm những mặt tích cực tiến bộ của cái cũ đã được cải tạo đi trên những nấc thang mới. Chính vì cơ sở hạ tầng thường xuyên vận động như vậy nên kiến trúc thượng tầng luôn luôn thay đổi nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của cơ sở hạ tầng.

Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng thể hiện trước hết là ở chỗ: Cơ sở hạ tầng là những quan hệ vật chất khách quan quy định mọi quan hệ khác: Về chính trị, tinh thần, tư tưởng của xã hội. Cơ sở hạ tầng nào sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy, nói cách khác cơ sở hạ tầng đã sinh ra kiến trúc thượng tầng, và kiến trúc thượng tầng bao giờ cũng phản ánh một cơ sở hạ tầng nhất định, không có kiến trúc thượng tầng chung cho mọi xã hội.

Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng về tính chất, nội dung và kết cấu: Tính chất của kiến trúc thượng tầng đối kháng hay không đối kháng, nội dung của kiến trúc thượng tầng nghèo nàn hay đa dạng, phong phú và hình thức của kiến trúc thượng tầng gọn nhẹ hay phức tạp do cơ sở hạ tầng quyết định.

Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng xã hội

Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở chỗ những biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng dẫn đến sự biến đổi căn bản trong kiến trúc thượng tầng. Mác viết: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì tất cả tất cả các kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị thay đổi ít nhiều nhanh chóng”.

Sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng diễn ra rõ rệt khi cơ sở hạ tầng này thay thế cơ sở hạ tầng khác. Nghĩa là, khi cách mạng xã hội đưa đến sự thủ tiêu cơ sở hạ tầng cũ bị xoá bỏ và thay thế cơ sở hạ tầng mới thì sự thống trị cũ bị xoá bỏ và thay thế bằng sự thống trị của giai cấp mới. Qua đó mà chính trị của giai cấp thay đổi, bộ máy nhà nước mới thành lập thay thế nhà nước cũ, ý thức xã hội cũng biến đổi.

Trong xã hội có đối kháng giai cấp, sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng diễn ra do kết quả của cuộc đấu tranh gay go phức tạp giữa các giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, mà đỉnh cao là cách mạng xã hội. Những biến đổi của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xét cho cùng là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng lực lực lượng sản xuất trực tiếp gây ra sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và sự biến đổi của cơ sở hạ tầng đến lượt nó lại làm cho kiến trúc thượng tầng biến đổi.

Trong sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, không phải cứ cơ sở hạ tầng mới xuất hiện thì kiến trúc thượng tầng mới mất đi ngay mà có bộ phận thay đổi dần dần chậm chạp. Vì trong cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, những tàn dư của cái cũ còn tồn tại rất lâu. Mặt khác cũng có những yếu tố, những hình thức không cơ bản nào đó của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ được giai cấp mới giữ lại, cải tạo để phục vụ cho yêu cầu phát triển của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mới.

Như vậy, chúng ta có thể thấy cơ sở hạ tầng có quyết định to lớn đối với kiến trúc thượng tầng, do đó trong cách mạng xã hội chủ nghĩa việc xây dựng cơ sở chủ nghĩa có tác dụng vô cùng to lớn đối với cuộc sống của xã hội. Chính vì tầm quan trọng của nó mà khi xem xét, cải tạo một bộ phận nào đó của kiến trúc thượng tầng phải xem xét cải tạo từ cơ sở hạ tầng xã hội. và tính quyết định của cơ sở hạ tầng đối với với kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp trong quá trình chuyển từ một hình thái kinh tế- xã hội khác.

Tuy vậy, những quan hệ tinh thần, tư tưởng của xã hội đó là kiến trúc thượng tầng, cũng không hoàn toàn thụ động, nó có vai trò tác động trở lại to lớn đối với cơ sở hạ tầng sinh ra nó.

Là một bộ phận cấu thành hình thành kinh tế xã hội, được sinh ra và phát triển trên một cơ sở hạ tầng nhất định, cho nên sự tác động tích cực của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện ở chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là luôn luôn bảo vệ duy trì, củng cố và hoàn thiện cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đấu tranh xoá bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng đã lỗi thời lạc hậu.

Kiến trúc thượng tầng tìm mọi biện pháp để xoá bỏ những tàn dư của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ, ngăn chặn những mầm mống tự phát của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mới nảy sinh trong xã hội ấy. Thực chất trong xã hội có giai cấp đối kháng, kiến trúc thượng tầng bảo đảm sự thống trị chính trị và tư tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị trong kinh tế. Nếu giai cấp thống trị không xác lập được sự thống trị về chính trị và tưởng, cơ sở kinh tế của nó không thể đứng vững được. Vì vậy, kiến trúc thượng tầng thực sự trở thành công cụ, phương tiện để duy trì, bảo vệ địa vị thống trị về kinh tế của giai cấp thống trị của xã hội.

Trong các yếu tố cấu thành nên kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng và có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng vì, nó là một lượng vật chất tập trung sức mạnh kinh tế và chính trị của giai cấp thống trị . Nhà nước không chỉ dựa trên hệ tưởng, mà còn dựa trên những hình thức nhất định của việc kiểm soát xã hội, sử dụng bạo lực, bao gồm các yếu tố vật chất: quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù… để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị, củng cố địa vị của quan hệ sản xuất thống trị.

Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng

Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp đối kháng đấu tranh với nhau giành chính quyền về tay mình, cũng chính là tạo cho mình sức mạnh kinh tế. Sử dụng quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị sẽ không ngừng mở rộng ảnh hưởng kinh tế trên toàn xã hội. Kinh tế vững mạnh làm cho nhà nước được tăng cường. Nhà nước được tăng cường lại tạo thêm phương tiện vật chất để củng cố vững chắc hơn địa vị kinh tế và xã hội của giai cấp thống trị.

Cứ như thế, sự tác động qua lại biện chứng giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng đưa lại sự phát triển hợp quy luật của kinh tế và chính trị. Ở đây, nhà nước là phương tiện vật chất, có sức mạnh kinh tế, còn kinh tế là mục đích của chính trị, điều này được chứng minh qua sự ra đời và sự tồn tại của nhà nước khác nhau.

Cùng với nhà nước, các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng cũng đã tác động đến cơ sở hạ tầng bằng nhiều hình thức khác nhau. Các yếu tố của kiến trúc thượng tầng không những chỉ có tác động lẫn nhau. Song thường thường những sự tác động đó phải thông qua nhà nước, pháp luật và thể chế tương ứng, chỉ qua đó chúng mới phát huy được hết hiệu lực đối với cơ sở hạ tầng, và đối với toàn xã hội.

Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng nó tác động cùng chiều với quy luật vận động của cơ sở hạ tầng. Trái lại, khi nó tác động ngược chiều với quy luật kinh tế khách quan nó sẽ cản trở sự phát triển của cơ sở hạ tầng.

Nói tóm lại, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có quan hệ biện chứng với nhau. Do đó, khi xem xét và cải tạo xã hội phải thấy rõ vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng và tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng, không được tuyệt đối hoá hoặc hạ thấp yếu tố nào.

Trung thành với lý luận Mác – Lênin và vận dụng sáng tạo vào tình hình thực tiễn ở Việt Nam, Đảng chủ trương tập chung đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác coi đó là nhiệm vụ quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trên lĩnh vực chính trị: “Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý về kinh tế – xã hội bằng pháp luật, kế hoạch, chính trị, thông tin, tuyên truyền giáo dục và công cụ khác” ( Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 7).

Cập nhật thông tin chi tiết về Nhận Diện Mối Quan Hệ Giữa “Xung Đột Lợi Ích” Và Tham Nhũng Hiện Nay trên website Nhatngukohi.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!