Xu Hướng 3/2023 # Nga Và Tranh Chấp Biển Đông # Top 7 View | Nhatngukohi.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Nga Và Tranh Chấp Biển Đông # Top 7 View

Bạn đang xem bài viết Nga Và Tranh Chấp Biển Đông được cập nhật mới nhất trên website Nhatngukohi.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Nhiều học giả đã ví von biển Đông như là Địa Trung Hải của châu Á. Điều này cũng dễ dàng giải thích cho việc biển Đông liên tục nổi sóng trong nhiều thập niên qua. Vào thời điểm hiện tại, Trung Quốc đã mạnh miệng tuyên bố biển Đông là lợi ích cốt lõi của họ. Còn Mỹ cũng đã phản hồi với tuyên bố biển Đông là lợi ích quốc gia. Vậy còn đối với Nga, biển Đông đóng vai trò là lợi ích gì đối với nước này?

Thứ nhất, xét về mặt lợi ích kinh tế, GS Vitaly Naumkin – Chủ tịch Trung tâm Chiến lược và Chính trị Moscow (Nga) cho rằng với nhu cầu phát triển như hiện nay, rõ ràng Nga rất quan tâm việc mở lối thoát ra thị trường mới tại châu Á, mở rộng cơ sở cung cấp nguyên liệu thô. Bên cạnh đó, Nga còn muốn đa dạng hoạt động của các tập đoàn dầu khí trong nước, giảm chi phí sản xuất và giành thêm những lợi thế cạnh tranh cho hàng xuất khẩu.

Với đặc thù về các yếu tố địa kinh tế thì biển Đông đã biến thành một cửa ngõ trọng yếu mà Nga muốn tận dụng để hiện thực hóa những nhu cầu trên. Cạnh đó, cũng theo GS Vitaly Naumkin, việc hợp tác với các nền kinh tế đang phát triển tại Đông Nam Á như Việt Nam cũng tạo điều kiện rất tốt cho Nga đa dạng phương thức hơn để Nga tham gia vào mạng lưới quan hệ kinh tế và quan hệ quốc tế toàn cầu.

Tàu săn tàu ngầm cỡ lớn Shaposhnikov của Hạm đội Thái Bình Dương của Hải quân Nga. Ảnh: Internet

Không chỉ thế, Nga còn có những hợp đồng khai thác dầu khí đang tiến hành tại khu vực. Xét ra thì những con số từ đây mang lại chỉ là một phần trong tổng lợi nhuận dầu khí khổng lồ trên toàn thế giới mang lại cho Nga nhưng nếu mất đi thì tổn thất lại không hề nhỏ. Chính bởi tầm quan trọng của những lợi ích kinh tế này mà ông Sergei Pravosudov – Giám đốc Viện Năng lượng Quốc gia Nga đã tuyên bố rằng: “Nếu Trung Quốc cứ tiếp tục gây hấn và xâm phạm tới biển Đông thì chắc chắn họ sẽ gặp phải sự phản ứng của Mỹ và Nga là hai quốc gia đang có nhiều tập đoàn dầu khí làm việc tại thềm lục địa của Việt Nam”.

Đến ảnh hưởng chính trị

Thứ hai, xét về mặt chính trị ngoại giao, bên cạnh mối quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc, hiện nước Nga còn có quan hệ hữu nghị truyền thống và lợi ích hợp tác với Việt Nam. Từ những năm 70 của thế kỷ trước, Liên Xô (sau này là Nga) đã đầu tư, thăm dò khai thác dầu khí ở biển Đông. Vì thế, Nga sẽ không muốn tình hình tranh chấp ở đây ảnh hưởng xấu đến quan hệ với các nước. Theo chia sẻ của GS-TS Vladimir Kolotov (Trưởng khoa Sử Viễn Đông, ĐH Quốc gia St. Petersburg, Nga) thì “đối với Nga, cả Việt Nam và Trung Quốc đều là đối tác chiến lược”.

Hơn nữa, với tư cách là một nước lớn, đang trên đường phục hồi vị thế vốn có của mình, nước Nga khó có thể bỏ qua những lợi ích chiến lược mang tính toàn cầu, cả hiện tại cũng như lâu dài. Biển Đông cũng nằm trong lợi ích chiến lược của họ. Không phải ngẫu nhiên mà Nga đã điều trung đoàn tên lửa S-400 đến đóng ở Viễn Đông, bán vũ khí tàu ngầm hiện đại, máy bay chiến đấu Su 30, tên lửa hành trình Bastion cho Indonesia, Malaysia và Việt Nam. Nga cũng thường xuyên đưa tàu chiến lui tới nhiều nước Đông Nam Á có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc. Sự quay trở lại trong mối quan tâm đến châu Á-Thái Bình Dương của Putin còn được đánh dấu qua việc Nga đã thành lập Bộ Phát triển Viễn Đông.

Trong bối cảnh Moscow đang tích cực thực hiện chính sách ngoại giao đa phương, khu vực biển Đông có ý nghĩa ngày càng quan trọng. Theo nhận định của chuyên gia Aleksey Fenenko (đăng trên báo Độc Lập của Nga) thì: “Nga quan tâm tới việc hội nhập vào khu vực này trên nhiều không gian và trong mọi cơ chế, tổ chức khác nhau như ASEAN, APEC, EAS nhằm sử dụng tiềm năng khu vực để nâng cao phát triển vùng Siberia và Viễn Đông”. Vì thế, có thể thấy việc can thiệp nhằm giữ cho tình hình biển Đông ổn định sẽ giúp cho Nga có đủ uy tín và vị thế hiện thực hóa được những điều này.

Và tầm nhìn chiến lược

Thứ ba, xét về mặt phát triển chiến lược quân sự, điều kiện địa lý của Nga rất không thuận lợi, làm hạn chế nghiêm trọng sự phát triển sức mạnh trên biển, sức mạnh hải quân của Nga.

Nhìn vào bản đồ địa lý có thể dễ dàng nhận thấy phần lớn đường bờ biển Nga thuộc khu vực lạnh giá, trong năm có thời gian đóng băng rất dài, tỉ lệ sử dụng bờ biển tương đối thấp. Khu vực biển Baltic và biển Đen đều có bờ biển ấm áp, có tương đối nhiều cảng không đóng băng nhưng độ dài của tuyến đường bờ biển không lớn, khó trở thành căn cứ chủ yếu để phát triển quyền kiểm soát biển.

Nhưng khu vực biển Đông thì khác, đây là vùng biển nhiệt đới, không bao giờ đóng băng. Đặc biệt, như một nhà quan sát ví von, quân cảng Cam Ranh được đánh giá như là “yết hầu” trong bản đồ chiến lược quân sự khu vực. Vì thế, Nga rất cần thông qua những đồng minh lâu năm của mình (như Việt Nam) để có thể mở thêm một hướng mới cho việc phát triển lực lượng hải quân.

Cuối cùng, nếu nhìn về sự cạnh tranh vị thế chiến lược thì Nga hiện có hai cường quốc cạnh tranh: Trung Quốc và Mỹ. Moscow hiện đang nhì n nhận sự trỗ i dậ y củ a Bắ c Kinh ở châu Á -Thá i Bì nh Dương vớ i một thái độ nghi ngạ i, với sự lo sợ về vị thế của mình. Vì vậy, dĩ nhiên “chàng gấu” Nga đang rất muốn đẩy lùi vị thế của người khổng lồ tại tất cả khu vực mà Nga có lợi ích.

Theo nhận định của TS Subhash Kapila (Tổ chức Phân tích Nam Á tại Ấn Độ) thì “tranh chấp biển Đông có thể làm thay đổi cục diện khu vực, thúc đẩy sự cân bằng cơ cấu quyền lực ở châu Á-Thái Bình Dương”. Từ đó, TS Subhash Kapila cho rằng việc can thiệp tích cực vào vấn đề tranh chấp tại biển Đông sẽ giúp cho tham vọng thay đổi trật tự quyền lực khu vực của Nga mau chóng được hiện thực hóa.Dù đang gặp nhiều vấn đề xấu về kinh tế, xã hội trong nước nhưng để bảo vệ những lợi ích và chứng minh cho cái gọi là vị thế cường quốc của mình, Nga bắt buộc phải hiện diện tại biển Đông – điểm nóng hiện tại của thế giới. Tuy nhiên, kịch bản nào cho sự quay trở lại của Nga tại biển Đông nói riêng và châu Á-Thái Bình Dương nói chung còn phải phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau.

Biển Đông – con đường huyết mạch thế giới

Trong số 10 tuyến đường hàng hải chính trên thế giới thì có năm tuyến đi qua khu vực biển Đông. Hơn 90% thương mại quốc tế được vận chuyển bằng đường biển, trong đó 45% đi qua khu vực này. Theo GS Bronson Pervcival, cố vấn cao cấp Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược CNA (Mỹ), “có khoảng 80% lượng dầu thô nhập khẩu của Trung Quốc, 60% của Nhật Bản và 66% của Hàn Quốc đi qua biển Đông; có tới 42% hàng xuất khẩu của Nhật Bản, 55% hàng xuất khẩu của các nước Đông Nam Á, 26% hàng xuất khẩu của các nước công nghiệp mới và 40% hàng của Úc đi qua biển Đông”. Điều này lý giải vì sao các cường quốc, trong đó có Nga, lại đặc biệt quan tâm và muốn hiện diện tại khu vực này.

Nga thỏa thuận bán khí đốt cho Trung Quốc

Theo Đài Tiếng nói nước Nga: Nga và Trung Quốc đã loại bỏ một trong những chướng ngại vật trên đường đi đến ký kết thỏa thuận về khí đốt. Việc cung cấp khí đốt của Nga sang Trung Quốc sẽ được thực hiện mà không cần tham chiếu đến mức giá của Trung tâm Kinh doanh khí đốt tự nhiên Henry Hub ở Mỹ. Giám đốc Viện Năng lượng Quốc gia Nga Sergey Pravosudov cho biết: Cuộc đàm phán về giá khí đốt của Nga xuất khẩu sang Trung Quốc dường như đã tiến về phía trước. Điều đó xảy ra dưới ảnh hưởng của tình hình trên thị trường năng lượng của châu Á.

Với một quyết định thuận lợi về giá cả, việc cung cấp khí đốt của Nga sang Trung Quốc có thể bắt đầu vào năm 2018.

Đây là một trong những hướng đi của Nga nằm trong chính sách năng lượng hướng đông của quốc gia này.

(Theo chúng tôi

Theo các chuyên gia, có bốn kịch bản chính cho tương lai của biển Đông. Nhưng dù xảy ra kịch bản nào thì Nga vẫn lựa chọn cách thức hiện diện của mình ở đây để mang lại lợi ích tốt nhất cho nước này.

Tranh Chấp Trong Hợp Đồng Tín Dụng

Tranh chấp trong hợp đồng tín dụng là một trong những dạng tranh chấp phổ biến nhất hiện nay được giải quyết tại tòa án nhân dân các cấp. Việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngân hàng tại tòa án đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giữ gìn an ninh trật tự xã hội.

Trong thời gian gần đây, số lượng các vụ tranh chấp kinh doanh, thương mại về tranh chấp hợp đồng tín dụng được giao cho tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã thành phố thuộc tỉnh giải quyết.

Trong thực tiễn, hợp đồng tín dụng ngân hàng có nhiều vấn đề phức tạp và chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro. Tại các tòa án trong thời gian vừa qua, các tranh chấp về hợp đồng tín dụng ngân hàng diễn ra với tần xuất ngày càng tăng, với tính chất phức tạp.

Hợp đồng tín dụng ngân hàng và các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng là một dạng cụ thể của hợp đồng vay tài sản đã được quy định trong Bộ luật dân sự 2015.

Hợp đồng ghi nhận thỏa thuận của hai hay nhiều bên làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên. Tuy nhiên, chỉ gọi là hợp đồng tín dụng ngân hàng khi bên cho vay là tổ chức tín dụng, trong đó chủ yếu là các ngân hàng. Hợp đồng tín dụng về bản chất là hợp đồng cho vay, theo đó ngân hàng (bên cho vay) giao cho bên vay một khoản tiền để dử dụng vào mục đích xác định trong thời hạn nhất định, theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.

Tranh chấp hợp đồng tín dụng là những mâu thuẫn phát sinh từ việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng giữa bên cho vay và bên vay. Đó thường là những tranh chấp về lãi xuất, nợ gốc, nợ lãi, việc giải ngân, xử lý tài sản bảo đảm…Tranh chấp này đối với bên vay là các hộ gia đình; cá nhân hay tổ chức không có đăng ký kinh doanh và không nhằm mục đích lợi nhuận. Hoặc là các tranh chấp kinh doanh thương mại khi vay vồn là tổ chức; cá nhân có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận.

Có nhiều dạng tranh chấp hợp đồng tín dụng như tranh chấp về hành vi vi phạm nghĩa vụ của một bên hoặc các bên trong hợp đồng; tranh chấp về việc thực hiện biện pháp bảo đảm đối với hợp đồng tín dụng có bảo đảm tài sản, tranh chấp về chủ thể xác lập, thực hiện hợp đồng; tranh chấp về định giá, xử lý tài sản bảo đảm đối với những hợp đồng tín dụng.

Giải quyết quyền lợi trong tranh chấp hợp đồng tín dụng

Để đảm bảo quyền lợi của các chủ thể tham gia tranh chấp hợp đồng tín dụng, việc giải quyết tranh chấp cần tiến hành như sau:

– Tranh chấp cần được giải quyết một cách kịp thời, chính xác, đúng pháp luật, để hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro có thể tận dụng được những cơ hội kinh doanh mới cho các chủ thể tham gia tranh chấp.

– Trong quá trình giải quyết tranh chấp phải đảm bảo giữ được bí mật của hoạt động kinh doanh cũng như uy tín của các bên trong quan hệ tranh chấp.

– Quá trình giải quyết cần đảm bảo tính dân chủ và quyền tự định đoạn của các bên với chi phí giải quyết thấp.

Pháp luật hiện hành quy định các phương thúc giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng cụ thể như: Thương lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án. Trong đó, phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Tòa án là hình thức cuối cùng mà các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp.

Đối với vấn đề giải quyết tranh chấp thì vấn đề mà các bên quan tâm đó chính là thủ tục giải quyết nhanh gọn, vấn đề tranh chấp được giải quyết triệt để, phán quyết có hiệu lực được thi hành. Trong thực tê hiện nay, khi phát sinh tranh chấp thì các bên trong vụ việc xảy ra khi không thê tiến hành thương lượng, hòa giải được sẽ chọn lựa phương pháp giải quyết bằng trọng tài bởi đối với phương thức này tranh chấp cũng sẽ có bên thứ ba đứng ra phân xử, nhưng việc lựa chọn trọng tài phụ thuộc vào hai bên.

Ưu điểm của giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đó chính là việc các bên có thể giải quyết nhanh chóng vấn đề tranh chấp, bảo mật được thông tin. Vì vậy, đây là hình thức được đa số các bên tranh chấp lựa chọn để giải quyết vấn đề.

Khi tranh chấp không thể tiến hành thương lượng, hay hòa giải được thì phương pháp cuối cùng đó là đưa ra tòa án giải quyết.

Một Số Đặc Điểm Của Tranh Chấp Hợp Đồng Tín Dụng

Một số đặc điểm của tranh chấp hợp đồng tín dụng

Vì tranh chấp HĐTD ngân hàng cũng là một loại tranh chấp hợp đồng nói chung, do đó có đầy đủ những đặc điểm vốn có của một tranh chấp hợp đồng. Tuy nhiên, với bản chất đặc thù của HĐTD, tranh chấp HĐTD ngân hàng mang một số đặc trưng riêng biệt để có thể phân biệt với các loại tranh chấp hợp đồng khác. Có thể khái quát đặc điểm của tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng các ý sau:

– Thứ nhất, giá trị của tranh chấp HĐTD ngân hàng thường có giá trị lớn hoặc thậm chí là rất lớn.

Khi kí kết HĐTD thì thường là do bên đi vay có nhu cầu về vốn mà không thể tự mình xoay xở được. Nhu cầu đó thường là để bổ sung vốn kinh doanh đối với tổ chức hoặc vay để phát triển kinh tế đối với cá nhân, hộ gia đình. Do đó, số tiền này không phải là nhỏ và dễ dàng vay được từ các tổ chức, cá nhân ngoài xã hội mà không phải là ngân hàng.

Về phía bên cho vay là ngân hàng, bên cạnh vai trò là chủ thể cung ứng vốn cho nền kinh tế thì TCTD còn đóng vai trò là người đi vay của các chủ thể khác để cho vay lại. Để đạt được lợi nhuận cao thì các TCTD thường kí kết các HĐTD có giá trị lớn dựa trên định giá tài sản đảm bảo tại thời điểm cho vay. Do bên vay vốn dùng khoản vay này phần lớn để đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh nên nếu bên vay không tuân thủ các cam kết trong hợp đồng, không trả nợ cho các TCTD sẽ làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động của TCTD đó. Thực tế không hiếm các trường hợp các TCTD lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả do “nợ xấu’. Một khi khách hàng vay không thể thanh toán được nợ, tranh chấp xảy ra thì TCTD sẽ là chủ thể bị thiệt hại lớn vì nguồn vốn bị ứ đọng, phải thực hiện các biện pháp khắc phục, mục đích lợi nhuận ban đầu không còn hoặc bị gián đoạn. Đặc biệt, nếu tranh chấp HĐTD phải khởi kiện tại Tòa án thì càng gây khó khăn cho TCTD khi muốn thu hồi vốn. Bởi khi đã bị khởi kiện tại Tòa án thì thường là người đi vay không còn có khả năng trả nợ cho TCTD. Mặt khác, khi tranh chấp HĐTD xảy ra thì TCTD sẽ mất lòng tin với khách hàng vay vốn, các HĐTD tiếp theo sẽ khó mà thực hiện, kể cả khi bên đi vay chứng minh lại được khả năng tài chính của mình. Do đó, có thể nói tranh chấp HĐTD là loại tranh chấp có giá trị thiệt hại lớn, không chỉ ảnh hưởng đến bên cho vay mà còn cả đối với bên đi vay. Thậm chí nếu tranh chấp xảy ra nhiều thì ảnh hưởng đó không chỉ ảnh hưởng đến một TCTD mà có thể ảnh hưởng dây chuyền đến các TCTD khác trong nền kinh tế.

– Thứ hai, tranh chấp HĐTD ngân hàng được giải quyết dựa trên nguyên tắc tự do thỏa thuận trong khuôn khổ pháp luật của các bên tham gia tranh chấp.

Pháp luật Việt Nam tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, cụ thể, Bộ Luật dân sự 2005 ghi nhận :”cam kết, thỏa thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng”[1]. HĐTD về bản chất là hợp đồng dân sự mà quan hệ dân sự là quan hệ mang tính thỏa thuận, tự định đoạt giữa các bên. Do đó, kể cả đối với việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD thì các bên cũng có quyền thỏa thuận để đạt được hiệu quả tối ưu nhất trong trường hợp có tranh chấp xảy ra. Việc tôn trọng quyền định đoạt này có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì quan hệ dân sự giữa các bên mang tính bình đẳng, không phải là mối quan hệ mệnh lệnh – phục tùng như các quan hệ hành chính nhà nước khác. Khi các bên tham gia tranh chấp có thể thỏa thuận được với nhau thì việc giải quyết tranh chấp sẽ diễn ra nhanh chóng, thuận lợi hơn, đồng thời giảm thiểu được thiệt hại về thời gian, tiền bạc, công sức của các bên. Về phía các cơ quan tài phán, thi hành án thì việc thỏa thuận này cũng có ý nghĩa trong việc giảm nhẹ khối lượng, áp lực công việc trong điều kiện các tranh chấp ngày càng xảy ra nhiều và phức tạp như hiện nay.

Đặc biệt, vấn đề thỏa thuận về phương thức giải quyết tranh chấp đối với các TCTD là ngân hàng nước ngoài, ngân hàng nước ngoài có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết. Bởi các chủ thể này khác với các TCTD trong nước, chịu sự điều chỉnh của cả pháp luật nước ngoài lẫn pháp luật Việt Nam và sự khác nhau trong quy định của pháp luật giữa Việt Nam và nước khác là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy, việc cho phép, tôn trọng quyền tự thỏa thuận của các bên khi có tranh chấp xảy ra sẽ giảm thiểu tối đa những xung đột pháp luật có thể xảy ra trong quá trình giải quyết các tranh chấp. Tuy nhiên, nguyên tắc đối với các thỏa thuận này là phải phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam.

Nguyên tắc tự do thỏa thuận khi giải quyết tranh chấp giữa các bên cũng được Bộ Luật tố tụng dân sự thể hiện ở chế định hòa giải. Theo đó, hòa giải là trách nhiệm của cơ quan tài phán khi có tranh chấp xảy ra và khi đó các bên có thể thỏa thuận về việc giải quyết vụ án[2]. Ngay cả trước khi diễn ra hoặc tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm các bên cũng vẫn có quyền thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp miễn sao thỏa thuận đó phù hợp với các quy định của pháp luật[3].

– Thứ ba, tranh chấp HĐTD luôn có sự tham gia của một bên là TCTD và phần lớn các tranh chấp HĐTD thì nguyên đơn là tổ chức tín dụng cho vay, bị đơn là bên đi vay.

Với đặc thù của hoạt động tín dụng là sự cung ứng nguồn vốn đến những tổ chức, cá nhân có nhu cầu về vốn trên cơ sở huy động của các tổ chức, cá nhân có thừa nguồn vốn trong xã hội nên TCTD luôn đóng vai trò trung gian trong mối quan hệ này. Sự tham gia của TCTD là một dấu hiệu đặc trưng nhằm phân biệt giữa tranh chấp HĐTD và tranh chấp hợp đồng vay tài sản thông thường giữa các tổ chức, cá nhân khác mà không phải là TCTD.

Đồng thời, về mặt lý thuyết, khi tham gia ký kết HĐTD, các TCTD và khách hàng có địa vị ngang bằng nhau tham gia thỏa thuận. Nhưng với tư cách là chủ thể có nguồn vốn dồi dào, việc áp đặt các điều kiện cho vay đối với khách hàng là điều không hiếm xảy ra. Hơn nữa, khi tham gia kí kết hợp đồng thì hợp đồng thường do bên cho vay là các TCTD soạn thảo với đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn về mặt pháp lý nhất định. Trong khi đó, chủ thể đi vay là khách hàng thường là các tổ chức, cá nhân, trình độ chuyên môn về mặt pháp lý của họ còn thấp và nhiều khi không được chú trọng đúng mức. Và như vậy là hợp đồng được kí kết với các điều khoản chặt chẽ nhằm bảo đảm cho quyền lợi của TCTD khi bên vay không trả nợ hay trả không đúng nghĩa vụ. Do đó, khi tranh chấp xảy ra thì TCTD luôn nắm đằng chuôi với các điều khoản được ghi nhận một cách chặt chẽ, rõ ràng trong hợp đồng được sự đồng thuận của cả hai bên. Vì vậy, nếu có tranh chấp xảy ra thì là do bên đi vay vi phạm, chứ ít khi TCTD lại vi phạm chính những điều khoản do chính mình soạn thảo.

Mặt khác, trong mối quan hệ HĐTD, các nghĩa vụ chính của bên đi vay thường phát sinh sau thời điểm giải ngân. Trong khi đó, tại thời điểm hoàn tất việc giải ngân cho khách hàng thì TCTD đã hoàn thành các nghĩa vụ của mình. Các nghĩa vụ khác của bên cho vay như bảo mật thông tin, lưu trữ hồ sơ tín dụng, nghĩa vụ thông báo, bảo quản tài sản bảo đảm, giải chấp tài sản đảm bảo… là ít quan trọng và là nghĩa vụ phát sinh từ quyền của bên vay[4]. Vì lý do đó nên nếu có tranh chấp xảy ra thì thường là do bên vay vi phạm nghĩa vụ của mình, rất hiếm gặp trường hợp bên đi vay khởi kiện TCTD.

– Thứ năm, tranh chấp HĐTD ngân hàng thường là tiền đề làm phát sinh và gắn liền với một quan hệ hợp đồng khác: hợp đồng bảo đảm tiền vay thông qua hình thức cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba

Các TCTD khi tham gia vào HĐTD đều có mục đích lợi nhuận từ việc cho vay đó vì bản chất của TCTD là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ. Để giảm thiểu rủi ro trong trường hợp bên vay không trả được nợ, thông thường TCTD chỉ đồng ý cho bên đi vay được vay vốn khi họ có cầm cố, thế chấp bằng tài sản hoặc có bảo lãnh của bên thứ ba. Các biện pháp bảo đảm này đóng vai trò là phương pháp dự phòng của TCTD khi rủi ro xảy ra. Khi đó, để đảm bảo cho nghĩa vụ được đảm bảo trong HĐTD thì các bên kí kết hợp đồng bảo đảm cho khoản vay. Tùy trường hợp mà đó có thể là hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp hay là dưới hình thức chứng thư bảo lãnh của bên thứ ba. Những điều khoản về quyền và nghĩa vụ trong các hợp đồng bảo đảm cho nghĩa vụ vay vốn là để bảo đảm cho việc vay vốn, xuất phát từ hợp đồng tín dụng đã được kí kết và mục đích cuối cùng là bảo đảm cho việc trả nợ của bên đi vay.

Như vậy, không có trường hợp nào, hợp đồng bảo đảm lại tách rời ra khỏi HĐTD với tư cách là một hợp đồng độc lập mà giữa chúng luôn có mối quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau. Có thể ví mối quan hệ này như là mối quan hệ giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ. Sự vô hiệu loại hợp đồng này có ảnh hưởng đến loại hợp đồng kia tùy trường hợp. “Trong trường hợp hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm vô hiệu mà các bên chưa thực hiện hợp đồng thì giao dịch bảo đảm chấm dứt, nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì giao dịch bảo đảm không chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Ngược lại, “giao dịch bảo đảm vô hiệu không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”[5]. Như vậy, có thể khẳng định rằng tranh chấp HĐTD, với tư cách là hợp đồng chính, luôn gắn liền và làm cơ sở phát sinh tranh chấp hợp đồng bảo đảm – hợp đồng phụ trong quan hệ tín dụng giữa các bên.

– Thứ sáu, tranh chấp HĐTD phát sinh từ sự xung đột về lợi ích giữa các bên tham gia tranh chấp.

Vì tranh chấp HĐTD cũng là một loại tranh chấp hợp đồng nên phải xuất phát từ xung đột lợi ích của các bên trong hợp đồng. Mặc dù vậy trong quan hệ dân sự, pháp luật hiện hành quy định một số cơ quan đoàn thể có thể khởi kiện để đảm bảo quyền lợi cho tổ chức, cá nhân khác mà không phải là lợi ích của chính cơ quan, đoàn thể đó[6]. Tuy nhiên, đối với tranh chấp phát sinh từ HĐTD thì chỉ có chính các bên hay người đại diện hợp pháp của họ mới có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên đi vay hay TCTD. Không có trường hợp nào mà tranh chấp HĐTD phát sinh do tổ chức, cá nhân khác khởi kiện để bảo vệ quyền lợi cho các bên tham gia HĐTD. Như vậy, tranh chấp phát sinh từ HĐTD chỉ phát sinh khi các bên khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quan hệ tín dụng, hay nói cách khác, tranh chấp HĐTD thường gắn liền với lợi ích của các bên tranh chấp[7].

Các Bước Thực Hiện Bảo Vệ Quyền Và Lợi Ích Hợp Pháp Khi Xảy Ra Tranh Chấp Đất Đai ?

Thị trường bất động sản quá “nóng” dẫn tới “sốt” hoặc quá “lạnh” dẫn tới “đóng băng” đều ảnh hưởng không tốt đến đầu tư phát triển sản xuất và đời sống của nhân dân. Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng nhấn mạnh: Phát triển thị trường bất động sản, bao gồm thị trường quyền sử dụng đất và bất động sản gắn liền với đất, làm cho đất đai thực sự trở thành nguồn vốn cho phát triển, góp phần vào công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước.

Cho đến nay, ở hầu hết các nước trên thế giới đều phân loại tài sản theo luật cổ La Mã, thành bất động sản và động sản. Bất động sản không chỉ là đất đai, của cải trong lòng đất mà còn là tất cả những gì được tạo ra do sức lao động của con người gắn liền với đất đai. Thị trường bất động sản có nhiều khu vực, bao gồm thị trường nhà ở, thị trường bất động sản trong công nghiệp và dịch vụ; thị trường bất động sản nông nghiệp; thị trường hạ tầng cơ sở, hạ tầng xã hội và công trình công cộng, thị trường dịch vụ hỗ trợ. Xét về hình thức kinh doanh, có thị trường mua bán, chuyển nhượng, thị trường cho thuê, thị trường xây dựng, kinh doanh, chuyển giao. Hàng hóa bất động sản là đòn bẩy để tạo động lực phát triển kinh tế – xã hội. Từ khi Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thị trường bất động sản nước ta đã từng bước hình thành và phát triển nhanh chóng.

Hoạt động đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nhà ở cũng đã có những chuyển biến đáng kể. Một số dự án nhà ở có vốn đầu tư nước ngoài được triển khai thành công tại thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và nhiều địa phương khác. Việc đầu tư vào các lĩnh vực bệnh viện, trường học, văn phòng, khách sạn, thương mại, khu du lịch, vui chơi giải trí… đã làm cho diện mạo đô thị thêm khởi sắc. Hiện nay, cả nước có hơn 650 ngàn cơ sở sản xuất công nghiệp. Các khu công nghiệp, khu chế xuất ra đời góp phần đáng kể vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và thu hút vốn đầu tư vào sản xuất, nhất là vốn đầu tư nước ngoài chiếm trên 40% đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

Thị trường bất động sản nhà ở và các loại bất động sản khác đã từng bước đáp ứng nhu cầu bức xúc của nhân dân về cải thiện chỗ ở và góp phần thúc đẩy phát triển đô thị và nông thôn theo hướng văn minh, hiện đại. Nhiều khu nhà mới khang trang đang dần dần thay thế các khu nhà ổ chuột, khu nhà ở cũ bị xuống cấp, hư hỏng. Nhà ở phát triển đa dạng cả về kiểu dáng, không gian kiến trúc và chất lượng nội, ngoại thất. Bên cạnh việc phát triển các loại nhà biệt thự, nhà vườn, một số thành phố lớn đã bắt đầu quan tâm và khuyến khích phát triển nhà chung cư cao tầng, với kiến trúc đẹp và cơ cấu căn hộ hợp lý. Nhiều đô thị trong thời gian qua đã hình thành những khu dân cư mới, tuyến phố mới, với kiến trúc và quy hoạch đẹp góp phần vào việc chỉnh trang đô thị và tạo ra chỗ ở bền vững.

Trong quá trình phát triển thị trường bất động sản, hệ thống các văn bản pháp quy được ban hành và sửa đổi bổ sung ngày một hoàn thiện như: Luật Dân sự; Luật Đầu tư trong nước; Luật Đầu tư ngoài nước; Luật Đất đai; Luật Xây dựng; Luật Nhà ở và Luật về kinh doanh bất động sản… Thông qua thực tế vận hành thị trường bất động sản, công tác quản lý nhà nước và thể chế kinh tế thị trường được hình thành hoàn thiện từng bước để phù hợp với yêu cầu phát triển và hội nhập.

Qua hai mươi năm đổi mới, thị trường bất động sản nước ta đã hình thành và phát triển với tốc độ nhanh. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, hoạt động của thị trường bất động sản còn bộc lộ nhiều khuyết tật, hiệu quả còn hạn chế. Thị trường bất động sản quá “nóng” dẫn tới “sốt”, hoặc quá “lạnh” dẫn đến “đóng băng” đều ảnh hưởng không tốt đến đầu tư phát triển sản xuất và đời sống của nhân dân.

Điều đáng nói là, chúng ta đã sử dụng không có hiệu quả tiềm năng đất đai. Thí dụ, việc giao và cho thuê đất chưa tính toán hết kinh tế của đất; việc áp dụng cơ chế đổi đất lấy hạ tầng chưa tính toán hết được giá trị tương lai của đất; nhiều tổ chức, doanh nghiệp nhà nước sử dụng lãng phí các cơ sở làm việc, sản xuất, kinh doanh. Giao và cho thuê đất không đúng thẩm quyền, không đúng mục đích xảy ra thường xuyên không chỉ ở cấp xã, cấp huyện mà cả ở cấp tỉnh và các cấp tương đương ở đô thị. Ở nhiều địa phương, đất đai được các cơ quan hành chính ban phát theo cơ chế “xin – cho” không dựa trên cơ sở luận chứng kinh tế – kỹ thuật khả thi về dự án đầu tư trên đất được giao hoặc cho thuê. Tài sản bất động sản chưa được tính hết giá trị tại các doanh nghiệp. Ở nước ta, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước đại diện chủ sở hữu thống nhất quản lý nhưng không những không huy động được giá trị to lớn của đất mà lại phải chi phí rất nhiều tiền đền bù khi tiến hành thu hồi đất để xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị và công trình quốc gia. Nhiều nơi tiền đền bù gấp 9 – 10 lần tiền làm đường, có trường hợp chiếm trên 50% tổng mức đầu tư.

Chúng ta cũng chưa có giải pháp hữu hiệu trong quản lý và điều tiết thị trường bất động sản để xảy ra tình trạng giá cả có khi biến động mạnh, vượt khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước, ảnh hưởng đến đầu tư phát triển, tác động không tốt đến đời sống tâm lý của một bộ phận đáng kể nhân dân, nhất là các đối tượng có thu nhập thấp, đối tượng thuộc diện bị thu hồi đất nông nghiệp. Hàng hóa bất động sản và thị trường bất động sản còn nhiều khiếm khuyết. Bất động sản chưa hoàn toàn được thừa nhận là hàng hóa. Thị trường “ngầm” phát triển rất đa dạng trong tất cả các khâu. Ở các khu vực đô thị, thị trường này chi phối khoảng 70% – 80% các giao dịch về nhà đất. “Cung – cầu” bất động sản nhà đất mất cân đối. Trong khi nhu cầu của dân cư về nhà ở và nhu cầu về mặt bằng kinh doanh của các doanh nghiệp rất lớn nhưng chưa được đáp ứng. Tình trạng “sốt” nhà đất, đầu cơ bất động sản khá phổ biến ở nhiều địa phương, nhất là các đô thị lớn làm ảnh hưởng không tốt đến hoạt động đầu tư, gây mất ổn định đời sống xã hội, làm tăng khoảng cách giàu nghèo và nảy sinh các vấn đề xã hội như tham nhũng, lừa đảo, hối lộ, sách nhiễu. Theo tính toán, đến năm 2010, dân số nước ta khoảng 88,3 triệu người, trong đó dân số đô thị khoảng 29,2 triệu người, chiếm tỷ lệ trên 33% tổng số dân toàn quốc. Điều đó dẫn đến nhu cầu bất động sản nhà ở rất lớn, tăng thêm áp lực vốn đã căng thẳng cho thị trường bất động sản. Đó cũng là nguyên nhân nảy sinh tình trạng đầu cơ nhà đất ngày càng trở nên trầm trọng.

Thị trường bất động sản trong thời gian qua trải qua hai đợt “sốt” là 1991 – 1993 và 2001 – 2003. Sau cơn sốt, mặt bằng mới được tạo ra và hầu như không giảm, dù cho thị trường giai đoạn tiếp theo đang đóng băng. Giao dịch trên thị trường bất động sản còn nhiều bức xúc. Quá trình mua bán phức tạp, qua nhiều khâu trung gian không cần thiết, tốn nhiều thời gian, sức lực, chi phí giao dịch cao. Các văn phòng môi giới hình thành tự phát, hoạt động không chuyên nghiệp, hiện nay chủ yếu là môi giới giữa người mua và người bán, chưa cung cấp được cho người mua những thông tin cần thiết về bất động sản. Thị trường bất động sản thiếu công khai, minh bạch dẫn đến nhiều tiêu cực, phiền hà, sách nhiễu đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân và tạo ra tâm lý không tin tưởng đối với các quy định của hệ thống pháp luật. Quản lý nhà nước yếu kém dẫn đến lãng phí, thất thoát, xây dựng tự phát tràn lan phá vỡ quy hoạch và để phát sinh nhiều tiêu cực trên nhiều mặt, nhất là công tác lập và quản lý quy hoạch, quản lý và điều hành quyền sử dụng đất. Công tác kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm của các cơ quan quản lý nhà nước và chính quyền các cấp đối với các mặt hoạt động của thị trường bất động sản, đặc biệt là hoạt động giao dịch bị thả nổi dẫn đến vi phạm kỷ cương, pháp luật và hậu quả tất yếu là sự thất thu ngân sách. Mô hình tổ chức quản lý và năng lực của cán bộ trong lĩnh vực bất động sản và thị trường bất động sản còn quá bất cập trước yêu cầu bức xúc của thực tiễn.

Một là, tăng khả năng cung cấp hàng hóa cho thị trường bất động sản, nhất là bất động sản nhà ở, bảo đảm bình ổn thị trường theo quy luật cung – cầu. Mở rộng các hình thức cung của thị trường bất động sản nhà ở bao gồm: nhà cho thuê, nhà bán trả dần để vừa tăng nguồn cung vừa phù hợp với các đối tượng của thị trường. Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong kinh doanh và bình ổn giá bất động sản. Từng bước mở rộng thị trường bất động sản cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia đầu tư. Khuyến khích đầu tư để tăng khả năng cung cấp hàng hóa bất động sản, nhất là bất động sản nhà ở và bất động sản khu công nghiệp, hạ tầng kỹ thuật, thương mại, khách sạn, văn phòng… nhằm phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Phát triển thị trường bất động sản là góp phần vào sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta lãnh đạo; tạo tiền đề phát triển mạnh mẽ đô thị và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Cập nhật thông tin chi tiết về Nga Và Tranh Chấp Biển Đông trên website Nhatngukohi.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!