Bạn đang xem bài viết Lý Luận Và Xây Dựng Nền Tảng Lý Luận được cập nhật mới nhất trên website Nhatngukohi.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Lý luận là một hệ thống các quan điểm phản ánh thực tiễn, được thể hiện dưới dạng hệ thống những tri thức đã được khái quát, tạo ra những quan niệm tương đối hoàn chỉnh về các mối liên hệ cơ bản và các quy luật của hiện thực khách quan. Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin, mọi lý luận chân chính đều bắt nguồn từ thực tiễn, phản ánh đúng thực tiễn và trở lại phục vụ thực tiễn. Vì lẽ đó, lý luận là một nội dung, một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động của một chính đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền mà không có lý luận dẫn đường thì “cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”(1), cách mạng sẽ không có “phong trào vận động” và đảng sẽ không thể làm nổi “trách nhiệm cách mạng tiền phong”. Để đạt được mục tiêu cải biến xã hội, xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn, đòi hỏi mỗi chính đảng cầm quyền phải xây dựng cho được một nền tảng lý luận, đáp ứng ba yêu cầu cơ bản: Một là, đáp ứng nhu cầu phát triển của quảng đại quần chúng nhân dân. Hai là, thường xuyên tạo ra động lực phát triển của xã hội theo xu thế phát triển của thời đại. Ba là, gắn kết với thực tiễn, giải đáp kịp thời những vấn đề thực tiễn đặt ra. Ba nội dung này có nội hàm gắn kết biện chứng với nhau, không tách rời nhau, làm cho nền tảng lý luận ngày càng thêm phong phú và trở thành vũ khí tư tưởng sắc bén cho phong trào cách mạng của đảng. Thực tiễn cách mạng luôn cho thấy, lý luận mà không đáp ứng được nhu cầu phát triển của quảng đại quần chúng nhân dân, xa rời mục tiêu, lợi ích của nhân dân thì đảng cầm quyền sẽ không thể tập hợp được sức mạnh to lớn, vĩ đại từ trong quần chúng nhân dân. Nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực sáng tạo ra lịch sử, nếu lý luận không làm thỏa mãn yêu cầu phát triển của nhân dân, thì tất yếu cách mạng sẽ đánh mất cả mục tiêu lẫn động lực. Chỉ khi nào lý luận thâm nhập được vào quần chúng, được quần chúng kiểm nghiệm, thì lý luận mới trở thành sức mạnh vật chất, thành vũ khí tư tưởng sắc bén, như C. Mác đã từng phân tích: “Lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất, nhưng lý luận cũng có thể trở thành lực lượng vật chất một khi nó thâm nhập vào quần chúng”(2). Lý luận nếu không tạo ra động lực phát triển của xã hội, không đảm bảo được vai trò đột phá, đi trước, mở đường thì đảng sẽ không làm được “cách mạng vận động”; không tổ chức, dẫn dắt được nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Trên thực tế, tác dụng và sức sống của lý luận luôn phụ thuộc vào khả năng của chính nó. Tức là, khả năng khái quát bản chất của hiện thực khách quan, rút ra quy luật phát triển, giải đáp kịp thời những vấn đề cấp bách của lịch sử để tiếp tục mở đường, thúc đẩy lịch sử phát triển. Ngược lại, thì phong trào cách mạng sẽ bế tắc, đảng cầm quyền sẽ khủng hoảng về đường lối chính trị, niềm tin của nhân dân sẽ bị lung lạc, cách mạng sẽ gặp khó khăn. Lý luận nếu không gắn kết với thực tiễn, giải đáp kịp thời những vấn đề thực tiễn đặt ra, sẽ không đáp ứng được yêu cầu phát triển liên tục của xã hội cũng như những nguyện vọng thiết tha của quần chúng nhân dân. Về nguyên lý, sự gắn kết giữa lý luận và thực tiễn là có mối quan hệ biện chứng không thể tách rời nhau. Lý luận là cái phản ánh thực tiễn, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, là căn cứ để kiểm chứng tính đúng đắn của lý luận. Xét đến cùng, lý luận là từ thực tiễn mà đúc kết, khái quát lên để tiếp tục dẫn dắt thực tiễn phát triển. Thực tiễn là cái bổ sung và làm phong phú, sắc bén thêm lý luận. Trong điều kiện phát triển phức tạp của hiện thực, nếu lý luận xa rời thực tiễn thì lý luận trở nên giáo điều, khô cứng, sáo rỗng; còn thực tiễn mà không có lý luận dẫn đường thì đó là thực tiễn “mù quáng”. Trên thực tế, khi nào và ở đâu lý luận gắn kết được với thực tiễn, giải đáp kịp thời những vấn đề thực tiễn đặt ra thì lúc đó, ở đó hệ tư tưởng của đảng và những giá trị văn hóa của dân tộc, những tinh hoa văn hóa thời đại được hội tụ và nhân lên, chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, cách mạng sẽ phát triển không ngừng. Nhận thức rõ tầm quan trọng và vai trò “làm cốt” của lý luận, ngay từ những giai đoạn “trứng nước” của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thường xuyên quan tâm, nhắc nhở Đảng ta “cần phải chăm lo xây dựng nền tảng lý luận tiền phong của Đảng”; “cần phải giáo dục và yêu cầu đảng viên ra sức học tập lý luận,… chống cái thói xem nhẹ học tập lý luận. Vì không học lý luận thì chí khí kém kiên quyết, không trông xa thấy rộng, trong lúc đấu tranh dễ lạc phương hướng, kết quả là “mù chính trị”, thậm chí hủ hóa, xa rời cách mạng”(3). Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giương cao ngọn cờ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: Kiên định và Phát triển nền tảng lý luận Mác xít, xây đắp phong phú thêm hệ thống lý luận cơ bản, đường lối cơ bản, cương lĩnh cơ bản của Đảng, thể hiện trên những phương diện căn bản sau: Thứ nhất, kiên định nền tảng lý luận của Đảng. Lịch sử Đảng gần 90 năm xây dựng và trưởng thành đã chứng minh, trong mọi hoàn cảnh, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn toàn tâm, toàn ý: “Kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam”, xây dựng nền tảng lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng phong phú, sinh động, giúp cho Đảng ta luôn vững vàng về tư tưởng chính trị, tổ chức và tác phong công tác. Kiên định nền tảng lý luận của Đảng, không có nghĩa là rập khuôn, máy móc mà là kiên định với những nguyên lý cơ bản của nền tảng lý luận đó, thể hiện ở lập trường cách mạng triệt để của giai cấp công nhân; ở quan điểm khoa học, xuất phát từ thực tiễn, phát hiện quy luật và làm theo quy luật; và ở phương pháp biện chứng để giải quyết các vấn đề tự nhiên, xã hội. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: “Bây giờ chủ nghĩa nhiều, học thuyết nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”. Luận điểm này đã khẳng định một vấn đề có tính nguyên tắc, đặt nền móng lâu dài cho công tác xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận. Cụ thể với Việt Nam, lý luận của Đảng dựa trên nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, “là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam…; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”(4). Thứ hai, phát triển sáng tạo nền tảng lý luận của Đảng. Mặc dù chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là vũ khí lý luận sắc bén, là kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng, nhưng tự bản thân nó không phải là một hệ thống lý luận giáo điều, nhất thành bất biến. Chỉ khi nào chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được vận dụng và phát triển sáng tạo trong thực tiễn, thì nó mới thực sự có sức sống mãnh liệt, soi rọi con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn và nhân dân ta đang tiếp bước. Thế giới không ngừng có những diễn biến phức tạp và biến động khó lường, luôn đặt ra rất nhiều tình hình mới, vấn đề mới cần phải trả lời cả về lý luận lẫn thực tiễn. Trong bối cảnh đổi mới, Đảng ta luôn đặt vấn đề cần phải làm rõ những luận điểm nào của Mác và Lênin là đúng, bây giờ vẫn đúng và lâu dài về sau vẫn đúng; những luận điểm nào trước kia đúng nhưng điều kiện lịch sử hiện nay đã thay đổi, không còn phù hợp cần phải bổ sung, phát triển… Từ đó, Đảng luôn chủ trương đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, đánh giá đầy đủ, chính xác thực tiễn, tập trung nghiên cứu lý luận, giải đáp kịp thời những vấn đề lý luận do thực tiễn đặt ra. Hiện nay, với sự tồn tại cục diện đa dạng hóa các chủ thể lợi ích trong xã hội, sẽ gây nên những ảnh hưởng nhất định tới nền tảng lý luận của Đảng, đó là điều khó tránh khỏi. Nhiều quan điểm lý luận, quan niệm tư tưởng khác nhau nảy sinh và cùng tồn tại, đây là một trong những nguyên nhân làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên dao động về tư tưởng và “chao đảo” về các quan niệm giá trị; thậm chí, bị mê hoặc vào những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch “diễn biến hòa bình”, dẫn đến nghi ngờ chủ nghĩa Mác – Lênin, nghi ngờ chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH ở nước ta. Đó là một thực tế chúng ta đang đang phải đối diện, trong khi vẫn còn nhiều vấn đề lý luận chưa được thống nhất và chưa được giải đáp thuyết phục. Trên thực tế, đã có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân có biểu hiện chao đảo về lập trường, mất phương hướng về niềm tin, dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, mà tác hại của nó, như đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nhấn mạnh: “Từ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”(5). Bài học lịch sử về sự đổ vỡ của CNXH hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu có nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó có một nguyên nhân quan trọng là các đảng cầm quyền ở những nước đó đã đánh mất vai trò soi đường của lý luận Mác xít, xa rời chủ nghĩa Mác – Lênin, làm cho hệ ý thức tư tưởng trong nội bộ bị rối loạn và mất khả năng hiệu triệu quần chúng. Bên cạnh đó, nếu chỉ kiên trì mà không phát triển thì lý luận sẽ trở nên giáo điều, khô héo, không đáp ứng được nhu cầu phát triển của quảng đại quần chúng nhân dân, không tạo ra được động lực phát triển của xã hội và chắc chắn không thể giải đáp kịp thời, khoa học những vấn đề biến động không ngừng của thực tiễn. Đại hội XII của Đảng đặt ra yêu cầu: “Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống các quan điểm về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, đẩy mạnh công tác thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước”(6). Đây cũng chính là biện pháp tốt nhất để đấu tranh với các khuynh hướng sai lầm, mơ hồ trong nhận thức của cán bộ, đảng viên; đồng thời, làm thất bại âm mưu xuyên tạc của các thế lực thù địch về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta, khi họ cho rằng chủ nghĩa Mác – Lênin là học thuyết đã lỗi thời, không thể giải quyết các vấn đề xã hội đặt ra trong thế giới đương đại; rằng nó chỉ là một môn phái học thuật đơn thuần, không có vai trò chỉ đạo, soi đường đối với cách mạng và kiến thiết đất nước; rằng CNXH là hoang tưởng, chỉ có chủ nghĩa tư bản mới là vĩnh hằng,… Đó là những luận điệu hoàn toàn sai trái và cũng là nguyên nhân tại sao chúng ta phải luôn luôn kiên định và phát triển không ngừng nền tảng lý luận của Đảng. Kiên định và phát triển là hai phạm trù có nội hàm khác nhau, nhưng thống nhất với nhau, giúp Đảng ta luôn kiên định sự chỉ đạo, soi đường của lý luận khoa học, giải quyết kịp thời các vấn đề thực tiễn đặt ra; đồng thời, trở lại làm phong phú, sâu sắc thêm nền tảng lý luận của Đảng. Từ đó, vượt qua khó khăn, thách thức và những cản trở của thời cuộc, vững bước đi lên cùng thời đại. Kiên định và phát triển vừa là nguyên tắc vừa là phương châm công tác cơ bản và cũng là thái độ ứng xử đúng đắn của Đảng ta đối với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chống giáo điều, xét lại trong nghiên cứu lý luận, xét lại chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm xây dựng nền tảng lý luận của Đảng ngày càng phát triển. Thấm nhuần phương châm “chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo”, Đảng Cộng sản Việt Nam đã giành được nhiều thành quả có ý nghĩa lịch sử to mà trước hết là nhờ vào cái vũ khí không gì thay thế được là nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời là sự đổi mới và phát triển không ngừng, đầy sáng tạo nền tảng lý luận. Cách mạng Việt Nam nhờ đó đã khắc phục được những bế tắc, khủng hoảng và khó khăn về đường lối lãnh đạo mà trước đó, các nhà cách mạng tiền bối luôn phải cam chịu “cả trăm thất bại mà không một thành công”. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Có lý luận soi đường thì quần chúng hành động mới đúng đắn, mới phát triển được tài năng và lực lượng vô cùng tận của mình”(7)./.
Phương Vinh
Bài đăng TCTG số 6/2019 —————————————————————————— (1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t.2, tr.289. (2) C.Mác – Ph.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb. Sự Thật, H,1980, tr.25. (3), (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.280, 277. (4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật, H, 2011, tr. 88. (5) Nguyễn Phú Trọng: Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, Báo Nhân dân ngày 14-10-2016. (6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật, H, 2016, tr.199-201.
Vai Trò Chủ Thể Của Người Dân Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới, Từ Cơ Sở Lý Luận Đến Thực Tế Triển Khai Thực Hiện
Trang chủCông tác phong trào, cứu trợ, đền ơn đáp nghĩa
Vai trò chủ thể của người dân trong xây dựng nông thôn mới, từ cơ sở lý luận đến thực tế triển khai thực hiện
Từ cải cách mở cửa cho đến nay, xu thế phát triển kinh tế thị trường đã đào tạo và xây dựng nên những chủ thể lợi ích đa dạng. Các chủ thể lợi ích khác nhau sẽ có những nhu cầu lợi ích khác nhau. Những lợi ích này có thể được thực hiện hay không lại phụ thuộc rất nhiều vào trình độ tổ chức của các tổ chức đó. Chỉ có các tập đoàn lợi ích mang tính chất chế độ hóa, tổ chức hóa mới có thể phát huy được vai trò bảo vệ lợi ích cho tổ chức mình. Trong cơ chế kinh tế thị trường khắc nghiệt, và bối cảnh cải cách mở cửa ngày càng sâu rộng, chính người nông dân là đối tượng đã đóng góp nhiều nhất và đồng thời cũng hy sinh nhiều nhất cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, cũng chính họ lại là tầng lớp chịu nhiều thiệt thòi nhất. Để cải thiện tình hình này, người nông dân cần phải tập hợp lại với nhau để xây dựng nên các tổ chức hợp tác đại diện cho quyền và lợi ích của mình, phát huy vai trò là chủ thể trong công cuộc xây dựng nông thôn mới.
Sự tham gia của người dân vào việc xây dựng nông thôn mới được coi như nhân tố quan trọng, quyết định sự thành bại của việc áp dụng phương pháp tiếp cận phát triển dựa vào nội lực và do cộng đồng làm chủ trong thí điểm mô hình. Khi tham gia vào quá trình xây dựng nông thôn mới với sự hỗ trợ của Nhà nước, người dân tại các cộng đồng dân cư nông thôn sẽ từng bước được tăng cường kỹ năng, năng lực về quản lý nhằm tận dụng triệt để các nguồn lực tại chỗ và bên ngoài. Khi xem xét quá trình tham gia của người dân trong các hoạt động trong phát triển nông thôn, vai trò của người dân ở đây được thể hiện: Dân biết, dân bàn, dân đóng góp, dân làm, dân kiểm tra, dân quản lý và dân hưởng lợi. Như vậy, vai trò của người dân vẫn theo một trật tự nhất định, các trật tự ở đây hoàn toàn phù hợp với quan điểm của Đảng ta “lấy dân làm gốc”. Các nội dung trong nâng cao vai trò của người dân trong việc tham gia xây dựng nông thôn mới được hiểu:
Dân biết: là quyền lợi, nghĩa vụ và sự hiểu biết của người nông dân về những kiến thức bản địa có thể đóng góp vào quá trình quy hoạch nông thôn, quá trình khảo sát thiết kế các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Mặt khác, người dân có điều kiện tham gia hiệu quả hơn vào các giai đoạn sau của quá trình xây dựng công trình. Người dân nắm được thông tin đầy đủ về công trình mà họ tham gia như: mục đích xây dựng công trình, quy mô công trình, các yêu cầu đóng góp từ cộng đồng, trách nhiệm và quyền lợi của cộng đồng người dân được hưởng lợi.
Dân đóng góp: là một yếu tố không chỉ ở phạm trù vật chất, tiền bạc mà còn ở cả phạm trù nhận thức về quyền sở hữu và trách nhiệm, tăng tính tự giác của từng người dân trong cộng đồng. Hình thức đóng góp có thể bằng tiền, sức lao động, vật tư tại chỗ hoặc đóng góp bằng trí tuệ.
Dân kiểm tra: có nghĩa là thông qua các chương trình, hoạt động có sự giám sát và đánh giá của người dân, để thực hiện các quy chế dân chủ cơ sở của Đảng và Nhà nước nói chung và nâng cao hiệu quả chất lượng công trình. Ở những công trình có nhiều bên tham gia, sự kiểm tra, giám sát của cộng đồng hưởng lợi có tác động tích cực trực tiếp đến chất lượng công trình và tính minh bạch trong việc sử dụng các nguồn lực của Nhà nước và của người dân vào xây dựng, quản lý và vận hành công trình. Việc kiểm tra có thể được tiến hành ở tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư trên các khía cạnh kỹ thuật cũng như tài chính.
Dân quản lý: đó là các thành quả của các hoạt động mà người dân đã tham gia. Các công trình sau khi xây dựng xong cần được quản lý trực tiếp của một tổ chức do nông dân hưởng lợi lập ra để tránh tình trạng không rõ ràng về chủ sở hữu công trình. Việc tổ chức của người dân tham gia duy tu, bảo dưỡng công trình nhằm nâng cao tuổi thọ và phát huy tối đa hiệu quả trong việc sử dụng công trình.
Dân hưởng lợi: chính là lợi ích mà các hoạt động mang lại, tuy nhiên cần chia ra các nhóm hưởng lợi ích trực tiếp và nhóm hưởng lợi gián tiếp. Nhóm hưởng lợi trực tiếp là nhóm thụ hưởng các lợi ích từ các hoạt động như thu nhập tăng thêm của năng suất cây trồng do thực hiện thâm canh, tăng vụ, áp dụng các giống mới, các kỹ thuật tiên tiến, phòng trừ dịch bệnh và các hoạt động tài chính, tín dụng… Nhóm hưởng lợi gián tiếp là nhóm thụ hưởng thành quả của các hoạt động đó, để hưởng lợi từ mức độ cải thiện môi trường sinh thái, học hỏi nhóm hưởng lợi trực tiếp từ các mô hình nhân rộng, mức độ tham gia vào thị trường để tăng thu nhập.
Kết quả bước đầu thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới đã tạo sự chuyển biến về nhận thức đối với các cấp, các ngành, đặc biệt đã khơi dậy vai trò chủ thể, tạo niềm tin, tự giác tham gia của người dân địa phương trong xây dựng nông thôn mới. Việc thực hiện chương trình đã mang lại những kết quả đáng khích lệ, cơ sở hạ tầng và bộ mặt nông thôn của các xã điểm đã có sự thay đổi đáng kể, nhiều hệ thống nước sạch cũng như việc xử lý chất thải đã hoạt động có hiệu quả. Sản xuất nông nghiệp và ngành nghề đã đạt được hiệu quả nhất định. Các xã làm điểm xây dựng nông thôn mới đã thực hiện việc quy hoạch chuyển đổi nhiều diện tích đất không hiệu quả kinh tế vào sản xuất các loại cây trồng phù hợp bằng biện pháp đưa giống mới năng suất cao vào thay thế các cây trồng không phù hợp. Bên cạnh đó đưa các loại giống cây lương thực và cây rau, hoa, có năng suất cao, chất lượng tốt vào sản xuất; đã phát triển cây lương thực để đảm bảo an ninh lương thực tại chỗ bằng biện pháp quy hoạch lại diện tích trồng lúa, nâng cấp hệ thống tưới tiêu để tăng hệ số sử dụng đất lên 3 lần, thâm canh tăng năng suất lúa trên 100% diện tích làm năng suất lúa từ 4 tấn /ha/năm lên 12 tấn/ha/năm. Bên cạnh đó, các xã này còn vận động các nông hộ cải tạo vườn tạp để xây dựng những vườn cây ăn quả có hiệu quả kinh tế cao, đồng thời tiến hành thực hiện việc dồn điền đổi thửa rất thành công, từ đó đã làm số thửa của mỗi hộ giảm xuống 4 lần và cho hiệu quả sản xuất, hiệu quả kinh tế cao. Việc phát triển đa dạng hóa các làng nghề cũng được chú trọng, một số mô hình phát triển chăn nuôi được quan tâm, đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Tuy vậy, vẫn còn một số tồn tại hạn chế mà trong đó một trong những tồn tại quan trọng nhất là việc thực hiện chương trình vẫn chủ yếu xuất phát từ mong muốn của cấp trên đưa xuống. Sự tham gia của người dân từ khâu đề xuất những công trình thiết yếu cho đời sống, sản xuất… đến việc quản lý điều hành còn rất yếu, nhiều nơi người dân hầu như không được tham gia mà chỉ được vận động khi cần đóng góp, do đó nhiều công trình không thực sự là nhu cầu bức xúc của nhân dân nên xây dựng xong không được đưa vào sử dụng một cách có hiệu quả và nhanh chóng xuống cấp. Một số đoạn đường dân hiến đất, hiến cây cối nhưng lại không tham gia chỉnh trang tu tạo lại đường khi đã giải tỏa xong, người dân vẫn chưa thực sự nhiệt tình trong việc tham gia thực hiện các tiêu chí của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.
Nâng cao vai trò của người dân là nâng cao thể chế quản lý, tự quản của cộng đồng người dân như xây dựng và thực hiện các hương ước, quy ước, nội quy của thôn, làng, bản. Phát huy vai trò của trưởng làng, trưởng bản, trưởng dòng họ và các tổ chức tôn giáo tại địa phương; thực hiện đoàn kết trong toàn dân, xây dựng các mối quan hệ tốt trong thôn, xóm, làng, bản. Phát huy tinh thần thương yêu đùm bọc, giúp đỡ nhau trong phát triển kinh tế, phòng chống và đấu tranh chống lại các tệ nạn xã hội. Đào tạo việc lập và thực hiện các dự án phát triển, cũng như việc vận hành và bảo dưỡng các công trình cơ sở hạ tầng nông thôn quy mô nhỏ. Đào tạo quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Thiết lập các tổ, nhóm quản lý, vận hành và duy tu, bảo dưỡng các công trình cơ sở hạ tầng nông thôn quy mô nhỏ, hình thành các tổ nhóm tiết kiệm, tín dụng nông thôn.
Vấn đề đặt ra là tổ chức nào sẽ đóng vai trò quan trọng và thực sự phát huy được vai trò chủ thể của người dân trong xây dựng nông thôn mới. Qua thực tế triển khai thực hiện các phong trào, các cuộc vận động và mới đây nhất là Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới, nhất là ở cộng đồng dân cư thì chỉ có Ban Công tác Mặt trận là đáp ứng được đầy đủ vai trò chức năng cần thiết để phát huy vai trò chủ thể của người dân trong tham gia thực hiện chương trình. Thực tế cho thấy nơi nào mà Ban Công tác Mặt trận phát huy và thể hiện hết vai trò chức năng của mình thì ở đó khối đoàn kết toàn dân được giử vững, đời sống của các hộ gia đình được thay đổi, tình làng nghĩa xóm đùm bọc yêu thương nhau, không có tình trạng trẻ em bỏ học, thất học, lang thang cơ nhỡ, các tệ nạn xã hội bị đẩy lùi và không tồn tại, các hoạt động văn hóa văn nghệ thể dục thể thao được duy trì và hoạt động có hiệu quả. Đặc biệt phương châm “Dân biết dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được phát huy và từ khi thực hiện xây dựng nông thôn mới thì càng thể hiện rõ hơn, nhất là có thêm vế sau “dân hưởng lợi”.
Qua triển khai Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới, người dân đã hiến hàng nghìn m2 đất, hàng trăm trụ cổng, trụ cổng, hàng rào và hàng nghìn cây cối cùng các loại tài sản khác ước tính lên đến hàng trăm tỷ đồng. Nếu như không có vai trò của Ban Công tác Mặt trận trong đó có các thành viên là Chi hội Phụ nữ, Nông dân, Hội CCB, Đoàn Thanh niên, Hội NCT, Hội CTĐ, Hội Khuyến học cùng vào cuộc cùng đến tận từng gia đình để tuyên truyền vận động với nhiều hình thức để người dân hiểu và có nhận thức đúng về chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới nhằm đạt được sự đồng thuận giữa chính quyền và người dân trong quá trình triển khai thực hiện. Nói một cách khái quát, mọi việc phải được dân biết, dân bàn, dân làm, dân hưởng thụ, thay vì như khẩu hiệu mà chúng ta đang thực hiện hiện nay là: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, nhưng cụ thể là:
Thứ nhất, để kết quả của chương trình xây dựng nông thôn mới sát thực và đáp ứng mong mỏi của người nông dân thì sự tham gia của người nông dân vào chương trình là rất cần thiết. Ví dụ: Trong công tác quy hoạch xây dựng nông thôn mới, yêu cầu đặt ra là bộ mặt nông thôn vừa phải kế thừa được truyền thống văn hóa của địa phương, truyền thống hàng nghìn năm của nông thôn Việt Nam, nhưng cũng phải đáp ứng được nhu cầu hiện đại đổi mới của đất nước, phù hợp với sự phát triển của quốc tế. Để làm được điều này, ngay từ khi tiến hành lập quy hoạch, người nông dân cần tham gia vào các hoạt động ngay từ đầu. Người dân phải được tham gia bàn luận, bởi họ là người sống và hiểu truyền thống tại cộng đồng nhất, mà các công trình được triển khai tại cộng đồng, người dân lại là những người được thụ hưởng kết quả từ những hoạt động hay những công trình đó.
Thứ hai, người dân phải chủ động ra quyết định làm cái gì? Công việc nào ưu tiên làm trước, công việc nào có thể làm sau. Bởi sau khi bàn luận, phân tích được điểm mạnh, điểm yếu, những thuận lợi và khó khăn của cộng động nơi họ đã sinh sống làm ăn bao đời nay do đó việc ra quyết định của người dân là rất quan trọng. Bởi sự lựa chọn của người dân sẽ phù hợp với nguồn lực của chính họ, phù hợp với nguồn lực của địa phương và của Trung ương hỗ trợ cho họ để các hoạt động đạt hiệu quả cao nhất.
Thứ ba, người dân phải thể hiện được quyền làm chủ của mình, tùy thuộc vào điều kiện và khả năng của chính họ, một số hoạt động tại địa phương người dân có thể đảm nhiệm để có cơ hội đóng góp công sức tiền của cho quê hương trong xây dựng nông thôn mới. Bên cạnh đóng góp cho cộng đồng, họ còn có thể thêm thu nhập từ những hoạt động của chương trình thay vì phải đi thuê từ bên ngoài cộng đồng.
Thứ tư, là làm cho từng người dân tự giác chỉnh trang nhà cửa, sân vườn cổng ngõ của họ theo quy hoạch chung của xã, đóng góp cho văn minh sạch đẹp của làng, xã từ chính nhà mình: Xây đủ các công trình vệ sinh, bố trí khu chăn nuôi hợp vệ sinh, cải tạo vườn, ao (vừa có thêm thu nhập) cải tạo ngõ tường rào để có cảnh quan đẹp vừa tạo môi trường sinh thái. Không thể có nông thôn mới nếu các hệ thống công cộng đẹp mà nơi ở của người dân lại xập xệ hoang tàn.
Thứ năm, người nông dân phải thực sự hiểu được, thấy được là họ làm cho chính mình, thực hiện theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, tự đầu tư nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh để thoát nghèo và làm giàu. Hay nói cách khác là: “chủ thể” cần thể hiện ở chỗ người dân phải từ nhu cầu tăng thu nhập mà chủ động tìm đến khoa học kỷ thuật, phải học, quyết định đầu tư, chọn hướng sản xuất và thâm canh trên ruộng vườn của mình để có năng suất cao.
Xây dựng nông thôn mới là biện pháp tổng hợp để phát triển nông thôn và cần phải được thực hiện ngay từ chính những người dân ở cộng đồng dân cư. Sự tham gia của người dân và cộng đồng đóng vai trò quan trọng thì việc xây dựng nông thôn mới đi đúng trọng tâm, trọng điểm; giải quyết tốt những khó khăn bức xúc của người dân trong sản xuất, phát triển kinh tế nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của họ. Chính vì vậy cần phải khẳng định và phát huy hơn nữa vai trò chủ thể của người dân trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay./.
Hồ Anh Đào
[Trở về]
Các tin đã đăng
Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận TQVN tỉnh triển khai các Chương trình phối hợp năm 2018
Trao bò giống cho hộ nghèo xã Thanh Hóa huyện Tuyên Hoá
Niềm vui của người nghèo
Trao bò giống sinh sản cho hộ nghèo tại 2 xã biên giới Kim Thuỷ và Lâm Thuỷ huyện Lệ Thủy
“Tiếp sức cho người nghèo vùng thiên tai” huyện Quảng Trạch
Chương trình truyền hình thực tế “Tiếp sức cho người nghèo vùng thiên tai” số 5 sẽ được tổ chức tại huyện Quảng Trạch
Mặt trận TQVN tỉnh đẩy mạnh Công tác phối hợp tuyên truyền, vận động nhân dân nâng cao ý thức, tích cực tham gia đảm bảo an toàn thực phẩm trong sản xuất, kinh doanh và sử dụng thực phẩm an toàn
Tiểu Luận Mâu Thuẫn Biện Chứng Trong Quá Trình Xây Dựng Nền Kinh Tế Thị Trường Theo Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Ở Việt Nam
Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan phổ biến hình thành từ những cấu trúc và thuộc tính bên trong vốn có tự thân của tất cả các sự vật, hiện tượng trong bản thân thế giới khách quan .do đó trong hoạt động thực tiễn phân tích từng mặt độc lập tạo thành mâu thuẫn cụ thể để nhận thức được bản thân khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật hiện tượng .
Cần nắm vững nguyên tắc để giải quyết mâu thuẫn. đó là sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập diễn ra theo quy luật phá vỡ những cái cũ để thiết lập cái mới tiến bộ hơn. Vì vậy, trong đời sống xã hội, mọi hành vi đấu tranh cần được coi là chân chính khi nó thúc đẩy sự phát triển.
Trong thời kỳ chuyển nền kinh tế ở việt nam tư kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ trương lãnh đạo của đảng là rất đúng đắn tuy nhiên trong thực hiện còn nhiều thiếu sót, mâu thuẫn giữa các vấn đề nẩy sinh, nhưng những mâu thuẫn đó lại đòi hỏi chúng ta phải giải quyết có như thế kinh tế mới phát triển theo đúng nghĩa đổi mơí của nó.
ần kinh tế dựa trên sở hữu xã hội và sở hữu tập thể làm nền tảng, lấy kinh tế nhà nước làm chủ đạo; lấy việc thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh làm mục tiêu. Muốn vậy nền kinh tế ấy phải đảm bảo: - Có tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, ổn định Giải quyết vấn đề công bằng xã hội phù hợp từng bước với sự tăng trưởng kinh tế;. - Đặt giơi sự lãnh đạo của đảng cộng sản giơi sự quản lý của một nhà nước thực sự của dân; - Lấy việc giải phóng sức sản xuất làm căn cứ chủ yếu để hoạch định cơ cấu thành phần kinh tế, hình thức sở hữu; - Làm cho kinh tế nhà nước phát triển trước hết là về chất để đóng vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền tảng; - Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền kinh tế thị trường, thực hiện công bằng xã hội ngày càng tốt hơn. trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, điều chủ yếu là tạo điều kiện công bằng trong phát triển con người; vừa không bình quân, vừa phải chú trọng đến tầng lớp dễ tổn thương, những vùng khó khăn; -Thực hiện nhiều hình thức phân phối,lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế làm chủ yếu. Hơn nữa nền kinh tế đó phải góp phần phát huy mọi tiềm năng, mọi sức lực xã hội; tạo điều kiện cho mỗi cá nhân làm giàu cho mình và cho toàn xã hội; chấp hành mọi pháp luật,kinh doanh có văn hoá; cạnh tranh và hợp tác một cách văn minh Để dữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, nhân tố nào có ý nghĩa quyết định ? trả lời vấn đề này có người cho rằng nhà nước là yếu tố chủ đạo trong sự phát triển của kinh tế thị trường. Bởi vì không thể lấy cái bộ phận (kinh tế nhà nước) của cái toàn thể (nền kinh tế thị trường nhiều thành phần) để định hướng sự phát triển của cái toàn thể đó. Bằng hệ thống pháp luật, chính sách, hệ thống động lực kích thích mà nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo đối với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Trong hệ thống công cụ để nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo đối với sự vận động của kinh tế, kinh tế nhà nước chỉ là một công cụ, dù có thể được xem là công cụ qua trọng nhất. Do vậy không nên xem kinh tế nhà nước là chủ đạo. Trong giai đoạn ngày nay của thời đại, mọi nhà nước đều tham gia quản lý kinh tế, định hướng phát triển kinh tế,cho nên nói vai trò chủ đạo của nhà nước là xoá nhoà ranh giới giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Thiết nghĩ, phải tìm yếu tố chủ đạo trong sự phát triển chung của nền kinh tế (có vai trò dẫn dắt sự phát triển của các thành phần kinh tế, định hướng sự phát triển của chúng) ngay trên lĩnh vực kinh tế. Bởi vì, trong khi không phủ nhận vai trò tác động mạnh mẽ của nhà nước tơi kinh tế, nhưng suy cho cùng sức mạnh nhà nước cũng do sức mạnh của kinh tế quyết định. Trong điều kiện cụ thể ở nước ta, bộ phận chủ đạo đó là kinh tế nhà nước, Vấn đề căn bản nhất, chủ chốt nhất và khó khăn nhất là làm sao kinh tế nhà nước vươn lên năm được vai trò chủ đạo ? điều đó được đặt ra trong khi kinh tế nhà nước hiện nay vẫn còn yếu kém ngay cả trên những phương diện chủ yếu nhất cuả nó: năng suất, chất lượng, hiệu quả. Để góp phần khắc phục tình hình đó, kinh tế nhà nước phải làm sao kết hợp được trong bản thân mình cái mạnh của tập thể, của cộng đồng và cái mạnh của cá nhân xét cả với tư cách động lực lợi ích kinh tế, cả với tư cách thực thể-con người kinh tế. then chốt của vấn đề này là tìm một cơ chế thích hợp vơi nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và có một đội ngũ cán bộ có đủ đức đủ tài. "vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước" được hiểu là : làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội ;mở đường, hướng dẫn,hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quả lý vĩ mô;tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới. Thực trạng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay Chúng ta đã chuyển một bước quan trọng sang kinh tế thị trường, nhưng chưa kết thúc bước chuyển đó. Do vậy còn đan xen những yếu tố của nền kinh tế chuyển đổi. Những yếu tố của nền kinh tế thị trường văn minh còn ít hơn là yếu tố sơ khai. Mặt khác trong xã hội chủ đã xuất hiện một số yếu tố đi quá xa(vượt khỏi giới hạn )khuôn khổ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Những nhân tố của nền kinh tế maphia, tính trạng thương mại hoá giáo dục, nhân phẩm là những thí dụ cho sự quá đà như vậy. Trình độ thấp kém, chưa đạt tới trình độ hoàn chỉnh của kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay biểu hiện ở chỗ : giá cả hàng hoá dịch vụ bị bóp méo, độc quyền còn quá lớn, tỷ giá chưa phải do trị thường quy định; tiền lương chưa có tính thị trường quyền kinh doanh trên thị trường còn hạn chế nhiều nên mất khả năng cạnh tranh. Các loại thị trường còn thiếu và chưa đồng bộ, trước hết là thiếu thị trường lao động, thị trường tiền tệ theo đúng nghĩa của nó. Các thể chế cho thị trường quá thiếu ; không it những thể chế đã có chưa phù hợp, thậm chí trái với yêu cầu của thị trường, sự can thiệp của nhà nước vào thị trường chưa thật phù hợp thậm chí trái với yêu cầu của thị trường, có tình trạng liên kết giữa bộ phận thoái hoá trong bộ máy nhà nước với những yếu tố tiêu cực của thị trường gây ra tham nhũng, nợ nần chồng chất. III.những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta : 1.một số vấn đề lý luận chung của chủ nghĩa Mác- Lênin về quan hệ giữa kinh tế với chính trị: Theo các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác- Lênin thì kinh tế quyết định chính trị: " chínhtrị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế". Trong lịch sử phát triển xã hội loài người không phải bao giờ cũng có vấn đề về chính trị. Xã hội nguyên thuỷ chưa có giai cấp, chưa có vấn đề chính trị. Từ khi xã hội xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp và Nhà nước thì vấn đề chính trị mới hình thành. Vấn đề chính trị là vấn đề thuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh giai cấp. Trung tâm của chính trị là đấu tranh giai cấp giữa các giai cấp, các lức lượng xã hội nhằm giành và giữ chính quyền nhà nước và sử dụng công cụ đó làm công cụ để xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền. Bản thân vấn đề chính trị ra đời hoàn toàn là do kinh tế quyết định. Chính trị không phải là mục đích, mà chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế, F.Engen Đã khẳng định "bạo lực chỉ là phương tiện, còn lợi ích kinh tế là mục đích". Trong tác phẩm "Lútvích Phoibăc và báo cáo chung của triết học cổ điển Đức", F.Engen đã chỉ rõ "để thoả thuận lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng là một phương tiện đơn thuần. Quyền lực chính trị là công cụ mạnh mẽ nhất để bảo vệ chế độ xã hội. Sự thốngtrị về chính trị của một giai cấp nhất định là điều kiện đảm bảo cho giai cấp đó thực hiện được sự thống trị về kinh tế. Đấu tranh giai cấp, về thực chất là đấu tranh vì lợi ích kinh tế, được thông qua đấu tranh chính trị. Theo F.Engen, " bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng đều là đấu tranh chính trị, xét đến cùng, đều xoay quanh vấn đề giải phóng về kinh tế". Để nhấn mạnh vai trò của chính trị V.I.Lênin đã khẳng định " chính trị không thể chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế". Khẳng định đó của Lênin không có nghĩa là phủ nhân hoàn toàn vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị, mà muốn nhấn mạnh tác động tích cực của chính trị đối với kinh tế. Vấn đề kinh tế không thể tách rời với chính trị mà nó được xem xét giải quyết theo một lập trường chính trị nhất định. Giai cấp nào cầm quyền cũng hướng kinh tế phát triển theo lập trường chính trị riêng của giai cấp đó nhằm phục vụ cho mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. Và lập trường chính trị đúng hay sai sẽ thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế, V.I.Lênin còn khẳng định " không có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó không thể nào giữ vững được sự thống trị của mình và do đó cũng không thể nào giữ vững được sự thống trị của mình và do đó cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ cuả mình trong lĩnh vực sản xuất". Khi thể chế chính trị không phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thì kinh tế tất yếu sẽ mở đường đi. Khi đó việc thay đổi thể chế chính trị cho phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế là điều kiện quyết định để thúc đẩy kinh tế phát triển. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị là thống nhất và biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định là kinh tế. Đây là cơ sở phương pháp luận quan trọng trong việc nhận thức xã hội nói chung, nhận thức công cuộc đổi mới ở Việt Nam nói riêng. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII( tháng 6 năm 1991). Đảng ta đã khẳng định: " về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuận của CNXH, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành đổi mới tổ chứcvà phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị kinh tế, văn hoá, xã hội. Vì chính trị đụng chạm đến tất cả các mối quan hệ đặc biệt nhạy cảm và phức tạp trong xã hội, nên việc đổi mới hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị dẫn đến rối loạn. Nhưng không vì thế mà tiến hành chậm trễ đổi mới chính trị, nhất là về tổ chức bộ máy và các bộ, các mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, bởi đó là điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và thực hiện dân chủ". Điều đó cho thấy Đảng ta đã không tách rời đổi mới kinh tế và đồng thời đổi mới chính trị. Đảng ra khẳng định rằngCơ Sở Lý Luận Chung Về Chiến Lược Marketing Du Lịch
1. Khái niệm về chiến lược marketing du lịch
1.1. Marketing du lịch là gì?
Hiện nay vẫn tồn tại rất nhiều định nghĩa về Marketing du lịch:
Theo Tổ chức du lịch thế giới:
“Marketing du lịch là một triết lý quản trị mà nhờ nghiên cứu, dự đoán, tuyển chọn dựa trên nhu cầu của du khách nó có thể đem sản phẩm du lịch ra thị trường sao cho phù hợp mục đích thu nhiều lợi nhuận cho tổ chức du lịch đó”.
Tuy rằng có rất nhiều định nghĩa khác nhau về Marketing trong du lịch nhưng phần lớn các tranh luận về Marketing du lịch là Marketing trong ngành kinh doanh nào thì cũng đều xoay quanh 4 nhân tố cơ bản (4Ps) của Marketing-mix đó là: P1: Sản phẩm (Product); P2: Giá cả (Price); P3: Phân phối (Partition); P4: Giao tiếp – Khuyếch trương (Promotion).
Có nhiều quan điểm cho rằng trong kinh doanh du lịch, lữ hành, cần bổ sung thêm 4Ps vào Marketing-Mix là: Con người (People), tạo sản phẩm trọn gói (Packaging), lập chương trình (Progamming), và quan hệ đối tác (Partnership). Tuy nhiên 4Ps bổ sung này đã xuất hiện trong 4Ps truyền thống.
Vậy, Marketing du lịch là tiến trình nghiên cứu, phân tích những nhu cầu của khách hàng, những sản phẩm, dịch vụ du lịch và những phương thức cung ứng, hỗ trợ để đưa khách hàng đến với sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu của họ, đồng thời đạt được những mục tiêu của tổ chức”.
(Vì sản phẩm du lịch thường ở xa khách hàng và cố định nên những đơn vị cung ứng du lịch phải tìm cách đưa khách hàng đến với sản phẩm).
Du lịch là một ngành dịch vụ đặc biệt, sản phẩm của du lịch cũng rất đặc biệt và thường ở xa khách hàng nên Marketing du lịch rất cần thiết trong lĩnh vực kinh doanh du lịch nhằm đưa khách hàng đến với sản phẩm, tạo điều kiện cho cung và cầu gặp nhau.
1.2. Khái niệm chiến lược Marketing du lịch
Chiến lược Marketing du lịch là tập hợp toàn bộ kế hoạch hành động từ thu thập thông tin, phân tích nhu cầu của khách hàng, xây dựng các chính sách sản phẩm, chính sách giá, chính sách phân phối và quảng bá, xúc tiến du lịch để đáp ứng tối đa nhu cầu khách hàng nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Nội dung của chiến lược Marketing du lịch bao gồm các chiến lược thành phần là: chiến lược sản phẩm, chiến lược giá, chiến lược phân phối và chiến lược giao tiếp khuyếch trương.
2.1. Chiến lược sản phẩm du lịch
“Sản phẩm du lịch là toàn bộ những hàng hoá và dịch vụ cung ứng cho khách du lịch trong quá trình đi du lịch – nhằm thoả mãn nhu cầu của họ”.
Theo Michael M.Coltman:
“Sản phẩm du lịch là một tổng thể bao gồm các thành phần không đồng nhất hữu hình và vô hình. Sản phẩm du lịch có thể là một món hàng cụ thể như thức ăn hoặc một món hàng không cụ thể như chất lượng phục vụ, bầu không khí tại nơi nghỉ mát”.
Thực chất sản phẩm du lịch là các dịch vụ, hàng hoá cung cấp cho khách, được tạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã hội với việc sử dụng các nguồn lực, cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động tại một cơ sở, một vùng hay một quốc gia nào đó.
Xét theo quá trình tiêu dùng của khách du lịch trên chuyến hành trình du lịch thì chúng ta có thể tổng hợp các thành phần của sản phẩm du lịch theo các nhóm cơ bản sau:
Các loại hình dịch vụ du lịch:
Căn cứ theo môi trường tài nguyên: gồm du lịch văn hoá và du lịch thiên nhiên.
Căn cứ vào lãnh thổ hoạt động: gồm du lịch quốc tế, du lịch nội địa và du lịch quốc gia.
Căn cứ vào đặc điểm địa lý của điểm du lịch : gồm du lịch biển, du lịch núi, du lịch đô thị, du lịch thôn quê.
Căn cứ vào phương tiện đến : gồm du lịch bằng xe đạp, du lịch bằng ô tô, du lịch bằng tàu hoả, du lịch bằng tàu thỦY, du lịch bằng máy bay.
Cần nghiên cứu các loại hình dịch vụ du lịch để có hướng phát triển, tạo ra những chủng loại sản phẩm du lịch phong phú, đáp ứng nhu cầu thị trường.
Chu kỳ sống sản phẩm của một vùng hoặc một điểm du lịch.
Chu kỳ sống của một phương thức, hình thức đi du lịch.
Chu kỳ sống của một chương trình du lịch cụ thể.
Hoạch định chiến lược sản phẩm du lịch cần xác định chu kỳ sống của sản phẩm để có thể những giải pháp điều chỉnh trong từng giai đoạn, từ đó có kế hoạch phát triển sản phẩm mới, đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường.
Muốn phân tích chính xác chu kỳ sống sản phẩm du lịch, ta cần phân loại rõ ràng:
Chu kỳ sống của một địa danh du lịch thường rất dài và ít khi triệt tiêu hoàn toàn và chu kỳ đời sống sản phẩm có thể phụ thuộc vào 3 loại: chu kỳ ngắn hạn; chu kỳ trung hạn; chu kỳ dài hạn.
Chu kỳ ngắn hạn: chu kỳ ngắn hạn của một điểm du lịch được tính là một năm hoặc ngắn hơn.
Chu kỳ trung hạn: thường xảy ra trên vài năm. Sở dĩ có sự thay đổi này có thể do xu hướng của khách, do vấn đề chính trị, sự bất ổn về an ninh hay do thay đổi kinh tế hoặc môi trường của địa phương.
Chu kỳ dài hạn: trải qua bốn giai đoạn: Giai đoạn phát hiện; Giai đoạn phát triển; Giai đoạn chín muồi; Giai đoạn suy thoái. Mỗi giai đoạn có một đặc tính riêng và không phải bất cứ sản phẩm nào cũng trải qua 4 giai đoạn này.
Tương ứng với mỗi giai đoạn của chu kỳ sống, đơn vị kinh doanh du lịch có những quyết định phù hợp trong chính sách sản phẩm của mình:
Giai đoạn thử nghiệm: bước đầu đưa sản phẩm ra thị trường lượng tiêu thụ còn hạn chế, những chương trình tiêu biểu được giới thiệu.
Giai đoạn phát triển: tập trung chủ yếu vào những chương trình bán chạy nhất, một vài chương trình phụ là cần thiết.
Giai đoạn suy giảm: phối hợp giữa các chương trình, kế hoạch cho sự tăng trưởng mới, hoàn thiện thay đổi mới hoàn toàn.
Việc nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch có tầm quan trọng sống còn đối với doanh nghiệp du lịch trong điều kiện hội nhập
*Phát triển đa dạng sản phẩm, dịch vụ du lịch
Chất lượng sản phẩm du lịch là chỉ tiêu rất khó xác định vì phần lớn sản phẩm du lịch là vô hình, tức là các dịch vụ. Việc xác định chất lượng sản phẩm phụ thuộc phần lớn vào các yếu tố chủ quan. Tuy vậy, một sản phẩm du lịch hoàn hảo đòi hỏi các yếu tố thành phần của nó cũng phải hoàn hảo.
Muốn nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch thì phải hoàn thiện và nâng cao chất lượng các yếu tố thành phần của sản phẩm, dịch vụ du lịch: các khu du lịch, các điểm du lịch; các dịch vụ lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí; dịch vụ vận chuyển du lịch; công tác tổ chức tour du lịch; các lễ hội và sự kiện du lịch…
Ngoài việc nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, đa dạng hoá loại hình sản phẩm cũng là một chiến lược quan trọng trong Marketing du lịch. Đa dạng hoá sản phẩm du lịch là làm cho sản phẩm du lịch phong phú hơn về chủng loại, chính là mang đến cho du khách nhiều cơ hội lựa chọn hơn. Nội dung phát triển đa dạng sản phẩm dịch vụ du lịch bao gồm:
Đa dạng loại hình du lịch: du lịch biển, rừng, đảo, vịnh, thành phố, thôn quê; Đa dạng phương thức phục vụ: ăn, nghỉ, vận chuyển; Đa dạng tour du lịch, tạo sản phẩm trọn gói: dài, ngắn, nhiều điểm đến, ít điểm đến; Đa dạng loại hình tham quan, giải trí: đền chùa, di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh.
* Mục tiêu của chiến lược giá
Do sản phẩm du lịch chủ yếu là các dịch vụ nên việc đa dạng hoá sản phẩm du lịch chính là thay đổi các yếu tố dịch vụ trong sản phẩm. Sự thay đổi của một điểm du lịch hay một khu du lịch diễn ra rất chậm nhưng sự thay đổi về một tour du lịch thì vô cùng nhanh chóng.
*Các nguyên tắc xác định giá
2.2. Chiến lược giá trong marketing du lịch
Nhằm làm thế nào bán được nhiều hàng nhất, doanh thu cao nhất, lợi nhuận nhiều nhất. Thực chất của chiến lược giá là xác định giá cho từng loại dịch vụ, hàng hoá phù hợp với điều kiện kinh doanh trong từng thời kỳ.
Các đơn vị tiền tệ khi sử dụng để tính giá thành phải thống nhất, nếu các đơn vị tiền tệ khác nhau thì phải quy đổi theo tỷ giá hiện hành.
Có rất nhiều phương pháp để xác định mức giá của chương trình du lịch cũng như các sản phẩm khác của du lịch.
– Xác định giá thành theo khoản mục chi phí: nghĩa là tính trên tổng chi phí để tạo ra sản phẩm (gồm cả chi phí biến đổi và chi phí cố định).
*Các chiến lược điều chỉnh giá
– Định giá dựa vào cạnh tranh: Theo phương pháp này chi phí cá biệt không được quan tâm tới mà chỉ căn cứ vào giá trên thị trường của đối thủ cạnh tranh để định giá của mình.
Trong kinh doanh du lịch, thường các sản phẩm không giống nhau khó mà đánh giá được chất lượng sản phẩm, vì vậy khi sử dụng phương pháp này người ta căn cứ vào chất lượng các sản phẩm cấu thành (chất lượng các dịch vụ trong chương trình).
Trong nhiều trường hợp, do những biến đổi của môi trường kinh doanh, các doanh nghiệp buộc phải có các chiến lược điều chỉnh giá của mình cho phù hợp với thị trường.
Thặng giá: (theo mùa, theo đối tượng khách và theo tiêu dùng cụ thể của khách hàng trong chương trình). Thặng giá nhằm mục đích khai thác tối đa thị trường cũng như nhằm tăng uy tín của chương trình du lịch.
Giá trị của chương trình du lịch là do cảm nhận của khách hàng đồng thời các chương trình khác nhau đối với những đoàn khách khác nhau nên chiến lược thặng giá có thể thực hiện một cách dễ dàng có hiệu quả.
*Mục tiêu của chính sách phân phối
Định giá phân biệ t: doanh nghiệp định giá khác nhau cho các đối tượng khác nhau nhằm khai thác triệt để các đoạn thị trường.
* Các kênh phân phối sản phẩm trong du lịch
Trên thực tế, người làm Marketing sử dụng tất cả các yếu tố trên để xây dựng giá của mình. Trong kinh doanh lữ hành, cách phổ biến là căn cứ vào chi phí sau đó trên cơ sở mục tiêu Marketing và mục tiêu lợi nhuận, xác định một mức trội trên doanh thu để xây dựng giá cho mỗi chương trình, mỗi đối tượng khác nhau ở mỗi thời điểm khác nhau, tương ứng với các vụ việc khác nhau.
Chính sách phân phối sản phẩm trong chiến lược Marketing du lịch là tập hợp các phương hướng, biện pháp để đưa sản phẩm du lịch vào các kênh tiêu thụ khác nhau sao cho thoả mãn ở mức cao nhất nhu cầu du lịch, mở rộng thị trường kinh doanh của công ty, đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Những đặc điểm của sản phẩm du lịch có ảnh hưởng quyết định đến hình thức cũng như phương thức hoạt động của các kênh phân phối. Sản phẩm du lịch không thể lưu chuyển trực tiếp tới khách du lịch, nên các kênh phân phối đã làm cho sản phẩm được tiếp cận dễ dàng trước khi khách du lịch có quyết định mua.
Các kênh phân phối thường có hai vai trò chủ yếu:
Thứ nhất, nó mở rộng điểm tiếp xúc với khách du lịch thông qua hệ thống các điểm bán, tạo điều kiện thuận lợi cho khách trong việc đặt mua sản phẩm qua các hệ thống thông tin như Telephone, Internet…
*Nội dung của chính sách phân phối sản phẩm
động và biến nhu cầu của du khách thành hành động mua sản phẩm. Hầu hết các kênh phân phối du lịch để được thực hiện thông qua các công ty lữ hành.
Vì vậy hệ thống các công ty lữ hành còn được gọi là hệ thống phân phối sản phẩm trong du lịch.
Tạo lập mối quan hệ: Đây là công việc chủ yếu trong chính sách phân phối sản phẩm du lịch. Các đơn vị kinh doanh du lịch phải thiết lập các mối quan hệ lâu dài, tốt đẹp với các khách hàng lâu đời của mình dù đó là một cá nhân hay một tập thể.
Trong việc thiết lập mối quan hệ cần đặc biệt chú ý tới các đại lý du lịch trung gian có uy tín trên thị trường du lịch và các khách hàng lớn của công ty. Tuy nhiên cũng cần nhận thấy sự khắt khe trong việc lựa chọn những nhà cung cấp dịch vụ từ phía công ty du lịch nhằm đảm bảo uy tín của mình.
Xác định phần trăm hoa hồng cho các kênh phân phối trung gian: Mức hoa hồng thường được tính trên giá thành và lượng sản phẩm tiêu thụ được. Việc xác định hoa hồng có ý nghĩa tương đối quan trọng trong hiệu quả kinh doanh của đơn vị, nó khuyến khích lợi ích vật chất đối với các kênh phân phối trung gian.
Vì vậy, căn cứ vào tình hình thực tế trong kinh doanh cũng như hiệu quả của từng đại lý, thời điểm kinh doanh để đưa ra một mức hoa hồng hợp lớp lý và cạnh tranh.
Nghiên cứu sử dụng kết hợp các kênh phân phối dọc và ngang: Các đơn vị kinh doanh du lịch không những nghiên cứu phân phối sản phẩm của mình thông qua các kênh trung gian riêng của họ mà còn cần xác định khả năng hợp tác, sử dụng các kênh trung gian riêng của các đối thủ cạnh tranh nhằm mở rộng hoạt động, tăng cường tiêu thụ sản phẩm.
Như vậy, việc xây dựng một chính sách phân phối sản phẩm một cách hợp lý dựa trên việc thiết kế hệ thống kênh phân phối sản phẩm trong chính sách Marketing du lịch là một công việc lâu dài, đòi hỏi sự hoàn thiện không ngừng tuỳ theo từng tình hình cụ thể của thị trường.
3.4. Chính sách giao tiếp – khuyếch trương
Hoạt động Marketing hiện đại rất quan tâm đến chính sách giao tiếp – khuyếch trương. Đây là một trong 4 nhóm công cụ chủ yếu của Marketing-mix mà doanh nghiệp có thể sử dụng để tác động vào thị trường mục tiêu nhằm đạt mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
Vì vậy, trong kinh doanh du lịch, chính sách giao tiếp khuyếch trương có vai trò đặc biệt quan trọng, nó tác động mạnh mẽ đến hiệu quả kinh doanh và chi phối toàn bộ những hoạt động khác trong chính sách Marketing.
Hoạt động giao tiếp và khuyếch trương hướng tới các mục tiêu như làm tăng sự nổi tiếng của dịch vụ, khuyến khích thử tiêu dùng sản phẩm (dịch vụ) hiện tại và sản phẩm mới, làm tăng thêm mức độ trung gian của khách hàng hiện tại, thay đổi cầu thị trường cho phù hợp với khả năng cung ứng dịch vụ, làm dễ dàng cho sự tham gia của khách hàng trong quá trình chuyển giao dịch vụ. Quá trình truyền thông tin và hoạt động giao tiếp trong lĩnh vực du lịch có đặc điểm sau:
Đặc điểm thứ nhất là tất cả mọi người đều nói. Các nhân viên phục vụ cần phải tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, nhìn và nghe họ nói, đánh giá mọi cử động để có thể nhận biết và thoả mãn yêu cầu của họ.
Đặc điểm thứ ba là tồn tại nhiều phương tiện truyền tin khác nhau và đa dạng. Hệ thống truyền tin của doanh nghiệp bao gồm cả 3 yếu tố, nhân viên giao dịch với khách hàng, cơ sở vật chất kỹ thuật và phương tiện truyền thông.
Đặc điểm thứ tư của truyền thông tin trong lĩnh vực du lịch là vai trò của thông tin truyền miệng. Do khó đánh giá chất lượng sản phẩm du lịch trước khi tiêu dùng nên các khách hàng mới tin vào độ tin cậy của thông tin rỉ tai, truyền miệng.
Vì vậy doanh nghiệp du lịch không chỉ chú ý đến các giai đoạn cung ứng, mà còn phải đánh giá mức độ thỏa mãn của khách du lịch nhằm củng cố hình ảnh về chất lượng sản phẩm của mình.
Cập nhật thông tin chi tiết về Lý Luận Và Xây Dựng Nền Tảng Lý Luận trên website Nhatngukohi.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!