Xu Hướng 9/2023 # Luật Và Vấn Đề Xung Đột Lợi Ích # Top 13 Xem Nhiều | Nhatngukohi.edu.vn

Xu Hướng 9/2023 # Luật Và Vấn Đề Xung Đột Lợi Ích # Top 13 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Luật Và Vấn Đề Xung Đột Lợi Ích được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Nhatngukohi.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Xung đột lợi ích là trường hợp hai hoặc nhiều nhóm lợi ích trái ngược cạnh tranh để tồn tại. Khi đứng trước yêu cầu giải quyết xung đột giữa các lợi ích hợp pháp trong quá trình xây dựng một quy tắc pháp lý, người làm luật phải lựa chọn giữa hai phương án: hoặc hy sinh hẳn một lợi ích (tất nhiên là với điều kiện bồi thường thỏa đáng) để bảo toàn lợi ích còn lại; hoặc dung hòa bằng cách cắt giảm mỗi lợi ích một chút, để cả hai tiếp tục cùng tồn tại hòa bình trong một ngôi nhà chung.

Đâu là căn cứ khoa học, đạo lý để quyết định hy sinh một lợi ích hoặc dung hòa các lợi ích trái ngược ? Điều chắc chắn là không thể để mặc cho người soạn thảo văn bản luật tự mình cân phân, đánh giá và quyết định phương án giải quyết vấn đề nhạy cảm này. Lý do là bản thân người soạn thảo văn bản luật cũng có những lợi ích của riêng mình và không loại trừ trường hợp lợi ích mà người soạn thảo luật nhắm tới cũng là lợi ích đang tham gia vào cuộc xung đột ấy.

Nói rõ hơn, việc xây dựng pháp luật nhằm giải quyết xung đột lợi ích phải được đặt trong một cơ chế chặt chẽ, nghiêm ngặt, nhắm đến mục tiêu cho ra đời các quy tắc thỏa mãn các tiêu chí công bằng. Tính chặt chẽ, nghiêm ngặt của cơ chế, đến lượt mình, thể hiện thành hai tính chất cần thiết và là hai yêu cầu cơ bản đối với một quy trình làm luật gọi là có chất lượng nhân văn: tính dân chủ và tính minh bạch.

Ở Việt , việc nhận thức về tầm quan trọng của một cơ chế bảo đảm chất lượng nhân văn của luật chưa được coi trọng. Cơ chế làm luật đang vận hành ở Việt , về phần mình, có những khuyết tật.

Một mặt, việc phân bổ quyền hạn trong hoạt động xây dựng pháp luật tỏ ra mất cân đối rõ nét theo hướng có lợi cho cơ quan hành pháp. Theo một tập quán làm luật phù hợp với một bộ máy lập pháp không chuyên nghiệp, luật chỉ có những quy tắc chung chung và chỉ phát huy được tác dụng theo thể thức và điều kiện do cơ quan hành pháp ấn định trong các văn bản lập quy. Với một quyền lập quy rộng rãi, cơ quan hành pháp có điều kiện đặt hệ thống pháp luật trong tầm chi phối của mình.

Mặt khác, vấn đề đánh giá tính khách quan, vô tư của người làm luật trong việc lựa chọn phương án giải quyết xung đột lợi ích đang bị bỏ ngỏ. Trừ việc tiếp thu ý kiến đóng góp của đại biểu Quốc hội đối với dự án luật, việc xử lý các ý kiến đóng góp của các chủ thể khác được thực hiện “tùy nghi”. Đặc biệt, không có bất kỳ một biện pháp nào được đặt ra nhằm kiểm soát sự tác động của các nhóm lợi ích trái ngược đối với quyết định của người làm luật trong quá trình xây dựng pháp luật.

Điều đáng chú ý nữa là: người làm luật ở Việt Nam, khi đứng về một phía trong cuộc xung đột lợi ích, có thể chịu sự công kích xã hội của nhóm có lợi ích bị hy sinh, nhưng không sợ sự công kích pháp lý của bất kỳ ai. Trong khung cảnh của luật hiện hành, công dân không có quyền kiện người làm luật trước tòa án về việc ra một văn bản lập quy trái với các nguyên tắc của luật, một văn bản luật trái với quy định của hiến pháp.

Đã đến lúc xây dựng mới cơ chế làm luật, coi trọng nguyên tắc dân chủ và minh bạch trong việc xây dựng pháp luật nhằm giải quyết xung đột lợi ích, nếu chúng ta thực sự nghiêm túc với việc theo đuổi mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền.

Xung Đột Nước Mắm Và Vấn Đề Lợi Ích Nhóm

NGUYỄN VĂN ĐÁNG (Trường Quản lý nhà nước Mark O Hatfield – ĐH Portland State)

Chia sẻ

Gây ảnh hưởng chính sách

Hai trong số những đặc điểm tạo nên sức mạnh cho nền kinh tế thị trường hiện đại là: (i) công nhận và bảo vệ sự đa dạng lợi ích; (ii) các chủ thể lợi ích được tự do tìm kiếm và gia tăng lợi ích của mình bằng những hành động mà pháp luật không cấm. Do đó, tìm cách gây ảnh hưởng đến chính sách của chính quyền theo hướng có lợi cho mình là một xu thế tất yếu và khách quan.

Nói khách quan vì dù ta muốn hay không thì đó cũng sẽ luôn là một thực tế không thể thay đổi, và sẽ ngày càng gia tăng. Hiện tượng này có thể được gọi là “vận động chính sách”, diễn ra ở mọi quốc gia với nền kinh tế vận hành theo các nguyên tắc thị trường. Cũng vì thế, những hành động mưu cầu lợi ích của nhóm nước mắm công nghiệp, nếu có, thì cũng không ngạc nhiên.

Chừng nào chưa có bằng chứng cho thấy họ vi phạm pháp luật thì chừng đó chúng ta không nên vội phê phán một cách tùy tiện. Không nên mặc định một nhận thức tập thể đầy cảm tính, giản đơn, theo hướng kỳ thị các nhóm lợi ích, dán cho họ những cái nhãn một chiều tiêu cực và xấu xa.

Tuy nhiên, việc các nhóm lợi ích bất chấp các nguyên tắc đạo đức trong sản xuất và kinh doanh, lợi dụng các kẽ hở thể chế trong việc ban hành chính sách, hoặc các quy phạm quản lý hành chính, hoặc lợi dụng sự vị kỷ của cán bộ chính quyền… để mưu lợi cho nhóm mình là một hiện tượng lệch lạc, gây hậu quả tiêu cực, cần lên án và loại trừ. Trong những trường hợp thế này, hành động của các chủ thể vị kỷ không còn là vận động chính sách, mà là lũng đoạn, thậm chí tham nhũng chính sách.

Đa dạng lợi ích

Giới nghiên cứu về quản trị công có sự phân biệt rõ ràng giữa ba loại lợi ích căn bản: (i) lợi ích cá nhân; (ii) lợi ích nhóm; và (iii) lợi ích công. Nếu “lợi ích cá nhân” là những nhu cầu của từng chủ thể riêng lẻ (ví dụ như nhu cầu tăng giá sản phẩm của một nhà sản xuất nước mắm), thì “lợi ích nhóm” bao gồm những nhu cầu chung, được quan tâm và cùng chia sẻ bởi một tập hợp các cá thể (chẳng hạn, nhu cầu giữ mức giá tối thiểu của một hiệp hội sản xuất nước mắm).

Còn “lợi ích công” cũng là những nhu cầu chung, được chia sẻ bởi nhiều cá thể, nhưng thêm yêu cầu là cần sự bảo vệ của chính quyền (ví dụ như nhu cầu bảo vệ sức khỏe của những người sử dụng nước mắm, hoặc nhu cầu bảo vệ sự “công bằng” trong sản xuất và kinh doanh).

Như vậy, “lợi ích cá nhân” khác “lợi ích nhóm” là ở cấp độ (cá thể riêng lẻ và tập hợp nhiều cá thể). “Lợi ích nhóm” có nhiều điểm tương đồng, và sẽ được coi là “lợi ích công” nếu nó phản ánh một nhu cầu chung nào đó, đòi hỏi các hành động can thiệp của chính quyền.

Tuy nhiên, cần lưu ý là không nên nhầm lẫn mọi “lợi ích nhóm” đều là “lợi ích công”. Chính vì sự đa dạng về lợi ích, cấp độ và chủ thể lợi ích như vậy cho nên việc hình thành các “lợi ích nhóm” và các “nhóm lợi ích” là một hiện tượng khách quan trong xã hội hiện đại.

“Nhóm lợi ích” là một hình thức tổ chức, tập hợp các lợi ích cá thể riêng lẻ, có chung nhu cầu bảo vệ và gia tăng các lợi ích tương đồng giữa họ. Vì vậy, với tư cách là một đặc điểm của xã hội hiện đại, bản thân sự xuất hiện “lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích” không phải là hiện tượng tiêu cực hay xấu xa.

Một hệ thống thể chế hiệu quả là hệ thống không chỉ cho phép và bảo vệ các hoạt động gây ảnh hưởng chính đáng, mà còn khiến các nhóm lợi ích, dù có muốn, thì cũng rất khó hoặc không thể lũng đoạn việc ban hành chính sách của chính quyền.

Ông Nguyễn Văn Đáng – Trường Quản lý nhà nước Mark O Hatfield, ĐH Portland State (Hoa Kỳ)

Xung đột lợi ích

Trong nền kinh tế thị trường đặc trưng bởi sự đa dạng về lợi ích và sự bảo đảm các quyền tự do mưu cầu lợi ích thì xung đột giữa các “nhóm lợi ích” để bảo vệ “lợi ích nhóm” là điều dễ xảy ra.

Nếu được phê chuẩn và ban hành, TCVN 12607:2023 sẽ gây thiệt hại cho nhóm nước mắm truyền thống trong khị lại có thể giúp gia tăng lợi ích cho nhóm nước mắm công nghiệp.

Trong khi đó, cơ quan chính quyền chuẩn bị dự thảo tiêu chuẩn bị công luận phản ứng vì với việc làm của mình, họ đã có biểu hiện chưa chú ý đúng mức đến chức năng bảo vệ các lợi ích công, cụ thể ở đây là “sự công bằng” giữa các nhà sản xuất nước mắm.

Sự lũng đoạn công quyền sẽ xảy ra nếu một chủ thể lợi ích hoặc nhóm lợi ích có thể mượn tay chính quyền để ban hành các chính sách có lợi cho họ nhưng lại xâm phạm lợi ích của các chủ thể khác.

Nhận thức về “lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích”

Trước hết, cần nhận thức rằng sự đa dạng về lợi ích, sự xuất hiện “lợi ích nhóm” và các “nhóm lợi ích” là một hiện tượng khách quan trong nền kinh tế vận hành theo nguyên tắc thị trường. Các chủ thể lợi ích đa dạng sẽ không bỏ qua bất kỳ biện pháp nào mà pháp luật không cấm để mưu cầu lợi ích cho họ. Cũng bởi sự chi phối của động cơ vị kỷ, sự xung đột giữa các chủ thể lợi ích là điều sẽ thường xảy ra.

Trong vô vàn biện pháp mưu lợi, thì tìm cách gây ảnh hưởng đến các hành động của chính quyền là một việc làm luôn được các chủ thể lợi ích ưu tiên. Vì vậy, vận động chính sách là một nhu cầu khách quan và chính đáng, không nghiễm nhiên mang hàm ý xấu.

Tuy nhiên, do cạnh tranh là một đặc tính của kinh tế thị trường, không có gì bảo đảm rằng các chủ thể lợi ích vị kỷ sẽ không bất chấp mọi nguyên tắc để mưu cầu lợi ích. Khả năng nhóm này gia tăng lợi ích của mình bằng cách xâm phạm lợi ích của nhóm khác là một nguy cơ luôn hiện hữu.

“Lợi ích nhóm” và “Nhóm lợi ích” không xấu nhưng sẽ không thể loại trừ nguy cơ sử dụng những cách thức xấu để đạt được “lợi ích nhóm”.

Trước thực tế khách quan nêu trên, không nên và cũng không thể đặt hết lòng tin vào việc các chủ thể lợi ích sẽ cạnh tranh có đạo đức. Hành động tìm kiếm lợi ích trước hết sẽ nhằm đáp ứng các nhu cầu vị kỷ, chứ không phải để thỏa mãn các khoái cảm đạo đức. Thêm nữa, trong khi quyền lực công là một ý niệm trừu tượng thì người nắm giữ công quyền lại là những cá nhân cụ thể, với đầy đủ các nhu cầu vị kỷ như mọi thành viên trong xã hội.

Vì vậy, cần ý thức rằng, khi các động cơ vị kỷ luôn hiện hữu trong mỗi chủ thể thì việc lũng đoạn các hành động của chính quyền cũng sẽ là mối đe dọa luôn thường trực.

Trong khi người dân luôn trông đợi các hành xử liêm chính, chí công, vô tư từ phía chính quyền, thì việc thiết lập các nguyên tắc thể chế chặt chẽ là hướng đi tất yếu để phòng ngừa từ xa sự lũng đoạn chính sách, hay sự mưu cầu lợi ích thông qua các biện pháp không chính đáng của các chủ thể vị kỷ.

Một hệ thống thể chế hiệu quả là hệ thống không chỉ cho phép và bảo vệ các hoạt động gây ảnh hưởng chính đáng, mà còn khiến các nhóm lợi ích, dù có muốn, thì cũng rất khó hoặc không thể lũng đoạn việc ban hành chính sách của chính quyền.

Nguyễn Tắc Tránh Xung Đột Lợi Ích Trong Tư Vấn Pháp Luật

Các nhà lập pháp (đại biểu quốc hội) nhiều khi đưa ra những chất vấn và nhiều khi chấp nhận những câu trả lời phi luật học. Đấy là một trong những nhược điểm được biểu hiện một cách công khai rõ ràng trên tất cả các phương tiện truyền thông. Chúng ta có một hệ thống tư pháp, một hệ thống xét xử rất không chuyên nghiệp, số lượng các vụ xử oan sai lên đến hàng chục ngàn, tức là có hàng chục ngàn người bị oan tồn tại trong xã hội đang phát triển ở thế kỷ XXI.

“Hội nhập không chỉ là một ý chí chính trị, hội nhập là một năng lực thật sự của con người, trong đó năng lực của những người hướng dẫn luật pháp là một trong những năng lực vô cùng hệ trọng”… (Nguyễn Trần Bạt là chủ tịch kiêm TGĐ InvestConsult Group).

Trong những năm gần đây, khi nền kinh tế mở cửa, phát triển theo xu hướng hội nhập, thì công việc tư vấn càng có vai trò quan trọng.

Vào WTO (Tổ chức Thương mại Thế giới) là vào “sân chơi” lớn của hội nhập kinh tế toàn cầu. Để có thể làm ăn với người nước ngoài và để khắc phục tình trạng “điếc không sợ súng”, các doanh nghiệp (DN) càng phải thông hiểu “luật chơi” toàn cầu…

Theo các công ty tư vấn nguồn nhân lực TPHCM, hiện nay đội ngũ luật sư làm công việc tư vấn pháp lý (in house lawyer) đang là vị trí được săn lùng với mức lương từ 600 – 2.000 USD/tháng. Các công ty liên doanh, tập đoàn nước ngoài tại VN luôn cần nhân sự này, như Unilever, Mercedes-Benz, Cargill…

Ông Nguyễn Đăng Trừng, Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TPHCM cho biết: Hiện TPHCM có khoảng 400 văn phòng luật sư, công ty dịch vụ pháp lý, trong đó có 25 chi nhánh công ty luật nước ngoài như: Hàn Quốc, Hồng Kông, Singapore, Mỹ, Úc, Pháp. Dự báo trong thời gian tới, công ty luật nước ngoài đầu tư vào VN sẽ tăng mạnh. Đây sẽ là nghề rất có triển vọng nhưng hiện tại đội ngũ luật sư của TP nói riêng, cả nước nói chung, hội đủ những điều kiện để có thể tham gia vào thị trường quốc tế chỉ chiếm khoảng 15%.

Tuy nhiên, không vì nhu cầu xã hội đòi hỏi mà Luật sư có thể ồ ạt đổ vào hành nghề tư vấn pháp luật, nghề tư vấn pháp luật cũng cần những nguyên tắc riêng của nó, mà một trong những nguyên tắc đó là “Nguyên tắc tránh xung đột lợi ích trong tư vấn pháp luật”. Trong phạm vi bài viết này chúng ta sẽ cùng nhau làm rõ nguyên tắc nói trên.

.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TƯ VẤN PHÁP LUẬT

1. Khái niệm về tư vấn pháp luật:

Tư vấn là “phát biểu những ý kiến về những vấn đề được hỏi đến nhưng không có quyền quyết định” (Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, 1998, trang 1035);

Như vậy, tư vấn pháp luật là việc giải đáp pháp luật, hướng dẫn ứng xử đúng pháp luật, cung cấp dịch vụ pháp lý nhằm giúp công dân, tổ chức trong và ngoài nước thực hiện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Nhìn dưới góc độ Luật sư, tư vấn pháp luật là:

– Đưa ra một giải pháp pháp lý cho một tình huống cụ thể;

– Hướng dẫn khách hàng ứng xử đúng pháp luật.

Theo nghĩa rộng, tư vấn pháp luật còn là cung cấp các dịch vụ pháp lý khác sau tư vấn. Ví dụ: đại diện cho khách hàng thực hiện một công việc cụ thể, tham gia tố tụng tại Tòa án, v.v…

Đặc điểm cơ bản của tư vấn pháp luật là:

– Về phía khách hàng: là người mang đến tình huống pháp luật.

– Về phía Luật sư: dựa trên những tình huống, thông tin mà khách hàng cung cấp, Luật sư thông tin, chỉ dẫn cho khách hàng một hành lang an toàn pháp lý.

Ví dụ: Thông tin khách hàng mang đến là “vấn đề có hợp pháp hay không?”; Luật sư sẽ tư vấn cho khách hàng biết luật quy định vấn đề này như thế nào, Trình tự, thủ tục tiến hành ra sao.

Do đó, Luật sư cần phải:

– Chỉ dẫn, đưa ra lời khuyên (chính kiến của Luật sư);

– Chỉ ra những điểm mạnh và điểm yếu của khách hàng (rủi ro);

– Đánh giá mức độ rủi ro để khuyên khách hàng hành động hay không hành động;

– Đưa ra những giải pháp cụ thể cho khách hàng lựa chọn.

Hiệu quả của tư vấn là:

– Giải pháp tư vấn phải mang lại hiệu quả kinh tế;

– Trong đời sống giao dịch thì đó là hành lang an toàn pháp lý, tiên liệu được rủi ro, đề ra được giải pháp thực hiện nhằm tránh hoặc hạn chế rủi ro;

– Yêu cầu đặt ra trong khi tư vấn là các bên (Luật sư và khách hàng) phải tuân thủ pháp luật, nguyên tắc đạo đức và ứng xử của nghề Luật sư, độc lập, khách quan, tôn trọng sự thật, trung thực… trên cơ sở mọi vấn đề đều phải được giải quyết căn cứ theo pháp luật.

Tuy nhiên, cuộc sống luôn phong phú hơn những dự liệu của điều luật nên Luật sư cần biết vận dụng nguyên tắc “công dân được phép làm những gì pháp luật không cấm”.

Cũng cần chú ý một thực tế ở Việt Nam là các cơ quan tố tụng và cơ quan hành chính chưa có sự tuân thủ pháp luật một cách triệt để, nghiêm túc nên khi tư vấn pháp luật cần đưa ra nhiều tình huống dự liệu đề phòng những trường hợp này.

2. Khái niệm về xung đột lợi ích:

Theo Từ điển Bách Khoa Toàn Thư Việt Nam, xung đột là sự va chạm, đánh nhau, tranh giành giữa những nhóm người, tập đoàn người hay giữa các quốc gia, dân tộc vì những mâu thuẫn đối địch về tư tưởng, ý thức hệ, về quyền lợi vật chất, về tôn giáo, chủng tộc hay lãnh thổ, v.v…

Xung đột có thể dừng lại ở mức “chiến tranh lạnh” vấn đề được giải quyết thông qua đối thoại, hoà giải nhưng cũng có thể bùng nổ lên thành những cuộc ẩu đả bằng bạo lực, thành những cuộc nội chiến hay chiến tranh biên giới đẫm máu, nhất là những xung đột về tôn giáo và sắc tộc.

Lợi ích là một trong những động lực quan trọng trực tiếp thúc đẩy hành động của con người nhằm thoả mãn nhu cầu cá nhân, gia đình, tập thể, giai cấp, dân tộc và xã hội. Một cách tương ứng, người ta phân biệt lợi ích riêng (cá nhân) và lợi ích chung (của gia đình, tập thể, tập đoàn, giai cấp, dân tộc hay xã hội). Lợi ích có thứ bậc khách quan: lợi ích xã hội cao hơn lợi ích giai cấp, lợi ích giai cấp cao hơn lợi ích bộ phận, lợi ích tập thể cao hơn lợi ích cá nhân, v.v…

Lợi ích là nguyên nhân thật sự, căn bản của hoạt động lịch sử và hành vi xã hội của con người. Lợi ích được con người ý thức trở thành động cơ tư tưởng của hoạt động thực tiễn có mục đích.

Trong xã hội có giai cấp, lợi ích gia đình và lợi ích cá nhân phụ thuộc vào lợi ích giai cấp, vai trò hàng đầu thuộc về lợi ích giai cấp. Tính đối kháng giữa các lợi ích giai cấp là nguyên nhân của đấu tranh giai cấp. Giai cấp thống trị nêu lợi ích của giai cấp mình thành lợi ích chung của toàn xã hội. Vì vậy, nhiệm vụ hàng đầu của chính đảng của giai cấp bị trị là làm cho giai cấp bị trị giác ngộ về lợi ích giai cấp của mình.

Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, lợi ích cơ bản của các giai cấp, của tầng lớp trong xã hội, của cá nhân là thống nhất; lợi ích của tiến bộ xã hội trở thành lợi ích chung của toàn xã hội – đó là tiền đề để kết hợp hài hoà các loại lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội.

Lợi ích kinh tế là những lợi ích tạo thành động lực khách quan trong đời sống kinh tế và trong hoạt động kinh tế của con người trong xã hội nhằm thoả mãn nhu cầu của mình. Nội dung, hình thức biểu hiện và thực hiện lợi ích kinh tế do các quan hệ sản xuất quyết định. Những lợi ích kinh tế đều mang tính lịch sử và giai cấp. Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất làm nảy sinh sự đối kháng lợi ích giữa kẻ chiếm hữu tư liệu sản xuất mà không lao động, và người lao động bị tước đoạt tư liệu sản xuất. Chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất là cơ sở khách quan của sự thống nhất và hài hoà giữa ba loại lợi ích: toàn xã hội, tập thể, cá nhân người lao động. Điều này không loại trừ những mâu thuẫn không đối kháng về lợi ích nảy sinh trong xã hội. Trong khi giải quyết những mâu thuẫn đó, vừa phải bảo đảm lợi ích toàn dân có tính chất chủ đạo, đồng thời coi trọng lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân người lao động, vì đó là động lực trực tiếp, thúc đẩy hoạt động kinh tế, cơ sở tạo điều kiện để thực hiện đầy đủ lợi ích xã hội và lợi ích tập thể.

Về mặt triết học, lợi ích kinh tế biểu hiện những quan hệ kinh tế khách quan của xã hội, quyết định phương hướng của ý chí và hành động con người. “Những quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích” (Enghen). Trong hệ thống các lợi ích, lợi ích kinh tế có vai trò quan trọng nhất; lợi ích tinh thần xét cho cùng cũng tuỳ thuộc lợi ích kinh tế.

NGUYÊN TẮC TRÁNH XUNG ĐỘT LỢI ÍCH TRONG TƯ VẤN PHÁP LUẬT

1. Quy định về “xung đột lợi ích” trong Luật Luật sư năm 2006:

Điều 5 và Điều 9 Luật Luật sư 2006 quy định như sau:

Điều 5. Nguyên tắc hành nghề luật sư

1. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.

2. Tuân theo quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư.

3. Độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan.

4. Sử dụng các biện pháp hợp pháp để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng.

5. Chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động nghề nghiệp luật sư.

Điều 9. Các hành vi bị nghiêm cấm

1. Nghiêm cấm luật sư thực hiện các hành vi sau đây:

a) Cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng có quyền lợi đối lập nhau trong cùng vụ án hình sự, vụ án dân sự, vụ án hành chính, việc dân sự, các việc khác theo quy định của pháp luật (sau đây gọi chung là vụ, việc);

b) Cố ý cung cấp tài liệu, vật chứng giả, sai sự thật; xúi giục người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, đương sự khai sai sự thật hoặc xúi giục khách hàng khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện trái pháp luật;

c) Tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác;

d) Sách nhiễu, lừa dối khách hàng;

đ) Nhận, đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác từ khách hàng ngoài khoản thù lao và chi phí đã thoả thuận với khách hàng trong hợp đồng dịch vụ pháp lý;

e) Móc nối, quan hệ với người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cán bộ, công chức khác để làm trái quy định của pháp luật trong việc giải quyết vụ, việc;

g) Lợi dụng việc hành nghề luật sư, danh nghĩa luật sư để gây ảnh hưởng xấu đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

2. Nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi cản trở hoạt động hành nghề của luật sư.

Có thể hiểu khái niệm “quyền lợi đối lập nhau” được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 9 Luật Luật sư (2006) cũng là khái niệm “xung đột lợi ích”, cụ thể là xung đột lợi ích kinh tế đã được giải thích ở phần trên.

Vì vậy, Luật sư không được tư vấn cho cả hai bên có quyền lợi đối lập nhau trong cùng một vụ việc. Việc Luật sư độc lập trong hoạt động tư vấn pháp luật phải được hiểu là độc lập trong tổ chức hành nghề, không phải độc lập trong từng Luật sư.

Ví dụ: Trong cùng một văn phòng Luật sư (hay công ty luật) thì không được nhận tư vấn pháp luật cho bên nguyên lẫn bên bị của cùng một vụ án.

Việc mâu thuẫn về lợi ích cũng có thể phát sinh sau khi bắt tay vào công việc. Luật sư phải ngừng ngay công việc cho khách hàng khi có sự phát sinh đối kháng về quyền lợi giữa các khách hàng này.

2. Những tình huống “xung đột lợi ích” trong thực tế:

a) Một khách hàng đến yêu cầu tư vấn chống lại một khách hàng khác cũng là khách hàng của Luật sư:

Một khách hàng thường xuyên của Luật sư gặp rắc rối trong việc kinh doanh, khách hàng đã trình bày với Luật sư vấn đề đó. Sau đó đối tác của khách hàng này cũng đến gặp Luật sư yêu cầu tư vấn chống lại vị khách hàng thường xuyên kia. Trong trường hợp này Luật sư phải từ chối tư vấn cho vị khách đến sau dù vị này có thể sẽ trả thù lao cao hơn và bảo vệ lợi ích cho vị khách quen.

Ví dụ: Cuộc ly hôn của hai “đại trí thức” kéo dài ròng rã 3 năm trời vì những thưa đi kiện lại kéo dài, bao gồm tranh chấp quyền nuôi con và tài sản, nhất là tài sản. Người vợ, dùng sức ảnh hưởng từ tên tuổi và những mối quan hệ mạnh của mình, không tiếc tiền và tiếc tấm thân gái một con “vận động hành lang” để lần lượt thắng hết phiên tòa này này đến phiên tòa khác. Internet, blog, truyền thông báo chí cũng được chị đưa vào công cuộc chống lại chồng. Người chồng không phải tay vừa, điên cuồng tập trung mọi chứng cứ để chống lại vợ. Hai bên nội ngoại cũng vào cuộc, lập thành hai chiến tuyến. Một mối quan hệ, từ mâu thuẫn tình cảm chuyển sang mâu thuẫn quyền lợi, thành ra cuộc chiến một mất một còn. Hai con người mang trong lòng một khối thù hận kết hợp với lòng tham, đã tàn phá tan hoang hình ảnh của họ trong nhau, và nhấn đứa con lên bảy trong bể phẫn nộ của họ.

Trong trường hợp này, rõ ràng quyền lợi của 2 bên vợ và chồng mâu thuẫn đối lập nhau, Luật sư chỉ được nhận tư vấn cho một phía là chồng hoặc vợ, không được nhận tư vấn cho cả hai vợ chồng này.

b) Luật sư cùng lúc làm việc cho cả người bán và người mua trong một cuộc mua bán tài sản:

Trong hợp đồng mua bán tài sản, mục đích hướng đến của các bên đều là lợi nhuận và luôn cố gắng làm sao để đạt được lợi nhuận về mình cao nhất. Người mua cốt sao mua được giá càng rẻ càng tốt, người bán cốt sao bán được giá càng đắt càng hay. Vì vậy, thiệt hại của bên này chính là lợi ích của bên kia nên xung đột lợi ích giữa bên mua và bên bán là điều tất yếu. Chính vì vậy, Luật sư không thể làm tròn trách nhiệm nghề nghiệp của mình đối với cả hai bên mua và bán tài sản trong cùng một vụ mua bán.

Theo Luật sư Đỗ Trọng Hải, Giám đốc Công ty Luật Bizlink, những vụ kiện cáo giữa người mua nhà và chủ đầu tư nổ ra gần đây chủ yếu xuất phát từ sự thiếu minh bạch trên thị trường nhà đất và hợp đồng mua bán nhà không chặt chẽ. Theo đó, trong nhiều năm, người mua nhà thường ở thế bất lợi hơn so với chủ đầu tư, đặc biệt các chủ đầu tư nhà nước.

Trong điều kiện đó, theo ông Hải, người mua nhà không có cơ hội đàm phán về hợp đồng và các thủ tục, mà thường chấp nhận hợp đồng do chủ đầu tư soạn sẵn. Đồng thời, thông tin về các dự án không được công bố rộng rãi, nên người mua nhà cũng không có cơ hội tìm hiểu kỹ về bất động sản trước khi đặt bút ký hợp đồng. Thậm chí, nhiều người mua nhà chấp nhận mua theo hình thức “góp vốn” hay bằng giấy viết tay, mà không cần đến hợp đồng. Vì thế, khi có trục trặc xảy ra, lợi thế vẫn thuộc về chủ đầu tư và quyền lợi cho khách hàng khó được bảo đảm.

Thêm vào đó, nhiều khách hàng không chú ý đến mặt pháp lý trong mua bán nhà cửa. “Pháp luật về đất đai, nhà cửa tại Việt Nam rất phức tạp, nhưng người mua nhà lại ít khi tìm hiểu cặn kẽ mà thường quen với thỏa thuận miệng, giao kết đại khái”, ông Hải nhận xét.

Ông Trần Minh Tuấn, Giám đốc kinh doanh một công ty cổ phần tại Hà Nội cũng rơi vào cảnh “tiến thoái lưỡng nan” vì bên bán nhà “lật kèo”. Đầu năm nay ông Tuấn ký hợp đồng mua một căn nhà tại quận Hoàn Kiếm giá 20 tỷ đồng với một công ty bất động sản. Ông Tuấn đặt cọc 500 triệu đồng và hẹn một tháng sau nhận nhà.

Tuy nhiên, công ty địa ốc này đang cho một nhà hàng thuê lại căn nhà, nên một tháng sau thời hạn trong hợp đồng, công ty vẫn không thể bàn giao. Ông Tuấn vì muốn nhanh chóng nhận được nhà, đồng ý cùng công ty trả tiền bồi thường hợp đồng cho bên thuê 2 tỷ đồng. Tuy nhiên, đến lúc này, công ty kinh doanh bất động sản không đồng ý mà đưa ra hai lựa chọn: hoặc ông Tuấn mua với giá 22 tỷ đồng và tự đòi nhà từ người thuê, hoặc mua với giá 24 tỷ đồng thì công ty sẽ đòi nhà giúp.

Hiện ông Tuấn không đồng ý với đề xuất này của công ty địa ốc. Đáng chú ý, ngoài hợp đồng mua bán nhà, 2 bên không có thỏa thuận nào khác bằng văn bản, mà đều thỏa thuận miệng hoặc dùng tin nhắn điện thoại để trao đổi.

Theo GS-TS Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Tài nguyên Môi trường, trong bối cảnh nhà đất được chủ đầu tư tung ra thị trường ít, mà người mua thì nhiều, việc bảo đảm quyền lợi cho khách hàng ít được quan tâm. Hơn nữa, nhiều trường hợp mua nhà “trên giấy” nên người mua cũng không hình dung được căn nhà mình mua ra sao.

Chị Hà, nhân viên Công ty Âu Lạc cho hay, chị phải “lót tay” cho nhân viên kinh doanh tại một khu căn hộ có tiếng cao cấp tại Hà Nội để được “đội” lên trong danh sách khách hàng chờ mua. Chủ đầu tư khu căn hộ này tung ra 160 căn hộ trong một đợt, nhưng chỉ trong 3 ngày đầu đã có tới trên 600 người đăng ký mua. “Đến khi nhận được thông báo được mua nhà, mình mừng quá, nên cũng không chú ý đến hợp đồng”, chị Hà thừa nhận.

Luật Nhà ở ban hành năm 2005 quy định, trong trường hợp có tranh chấp về nhà ở, Nhà nước khuyến khích các bên giải quyết thông qua hòa giải. Trong trường hợp hòa giải bất thành, vụ việc được xử lý theo Luật Dân sự. Tương tự, Luật Kinh doanh Bất động sản có hiệu lực từ 1/1 cũng quy định, mọi tranh chấp đều xử lý như đối với hợp đồng dân sự. Tuy nhiên, hiện hầu hết hợp đồng mua bán nhà chưa có các điều khoản cụ thể về quyền lợi và nghĩa vụ của 2 bên cũng như những điều khoản về chất lượng nhà.

Cùng với đó, hiện chưa có cơ chế quản lý rủi ro cho khách hàng. Khi chủ đầu tư phá sản, quyền lợi của người mua nhà khó được bảo đảm. Trong nhiều trường hợp, chủ đầu tư “sang tay” dự án cho đơn vị khác, nhưng người mua nhà cũng không được thông báo, hoặc thông báo chậm…

c) Khách hàng yêu cầu tư vấn về một tài liệu mà Văn phòng của Luật sư đã soạn thảo cho một khách hàng khác:

Tài liệu mà văn phòng Luật sư đã soạn thảo cho khách hàng của mình có thể là hợp đồng mua bán, di chúc, thỏa thuận về phân chia tài sản chung, v.v… nhằm đạt được hiệu cả kinh tế cao nhất cho khách hàng của mình. Nếu có một khách hàng khác đến yêu cầu Luật sư tư vấn về tính đúng sai, các khía cạnh pháp lý, lợi ích của các tài liệu nói trên mà Luật sư lại nhận lời tư vấn thì rõ ràng Luật sư đã vi phạm vào điều cấm của Luật Luật sư và nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp của mình là tiết lộ bí mật của khách hàng, được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 9 Luật Luật sư.

Ví dụ: Tư vấn, soạn thảo Hợp đồng đại lý bán hàng giữa một doanh nghiệp Trung Quốc và một Công ty thương mại Việt nam về bán sản phẩm kim khí cao cấp và máy nông nghiệp; Tư vấn cho một công ty cổ phần để xác định việc không áp dụng quy định về thuế thu nhập bồ sung khi thực hiện một luật thuế mới (giảm hàng trăm triệu đồng so với mức cơ quan thuế dự kiến ấn định);

d) Cùng lúc tư vấn cho Ngân hàng cho vay tiền và người vay tiền:

Khi ký hợp đồng cho vay tiền, mục đích của Ngân hàng là thu được vốn và lãi từ người vay ở mức cao nhất có thể, thời gian thu hồi vốn ngắn nhất; còn mục đích của người vay là vay được tiền và trả lãi suất ở mức thấp nhất, vay trong thời gian dài nhất, cá biệt có trường hợp người vay cũng muốn quịt nợ Ngân hàng nên yêu cầu Luật sư tư vấn các biện pháp lợi dụng kẻ hỡ của pháp luật để trốn tránh nghĩa vụ trả tiền.

Năm 1996, chị Lê Thị Thu Hà (ấp Phú Mỹ Thượng, xã Phú Thọ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang) có vay của Ngân hàng Nông nghiệp huyện Phú Tân 30 triệu đồng. Để làm tin, chị Hà đã mượn bốn “giấy đỏ” đất nông nghiệp của cha và các cô, chú để thế chấp cho ngân hàng. Sau đó, vì nuôi cá thua lỗ, chị Hà mất khả năng trả nợ.

Năm 1998, Ngân hàng Nông nghiệp huyện Phú Tân đã thưa chị Hà ra tòa để đòi nợ. Cho là chị Hà có dấu hiệu phạm tội hình sự, TAND huyện Phú Tân đã chuyển hồ sơ vụ án sang cơ quan điều tra. Nóng lòng thu hồi nợ, ngân hàng quay sang kiện bốn người chủ “giấy đỏ” nêu trên.

Năm 2000, khi mời hai bên đến hòa giải, TAND huyện Phú Tân phát hiện có hai khế ước vay tiền (một do ngân hàng giữ và một do người vay giữ) khác biệt nhau. Tờ khế ước của người vay thể hiện số tiền được duyệt vay là 80 triệu đồng. Tuy nhiên, bên cột ký nhận của người vay và của kế toán lại cho thấy chị Hà chỉ nhận có 30 triệu đồng. Ngược lại, khế ước của ngân hàng thể hiện chị Hà có ký nhận vay tiền hai đợt, đợt đầu 30 triệu đồng, đợt sau 50 triệu đồng.

Ông Lê Thành Đúng (một trong bốn chủ “giấy đỏ”) cho hay lúc hòa giải, thẩm phán chỉ công nhận tờ khế ước của bên vay vì số tiền trả lãi khớp với số tiền vay là 30 triệu đồng. Kết thúc buổi hòa giải, ngân hàng đồng ý rút đơn khởi kiện. Sau đó, hai bên thống nhất là bốn chủ đất phải trả nợ thay cho người vay, trả cả vốn lẫn lãi và tiền phạt nộp lãi trễ hạn, tổng cộng hơn 50 triệu đồng. Tháng 3-2001, bốn chủ đất đã trả hết nợ theo thỏa thuận nhưng đến giờ ngân hàng vẫn không trả “giấy đỏ” cho họ.

Quý khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi:

Một Số Vấn Đề Về Kiểm Soát Xung Đột Lợi Ích Trong Hoạt Động Công Vụ

1. Quan niệm kiểm soát xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ Từ trước tới nay, việc định nghĩa thuật ngữ xung đột lợi ích đã được nhiều nghiên cứu đưa ra, tuy nhiên chưa có một định nghĩa nào mang tính chất toàn cầu về vấn đề này. Trong một nghiên cứu vào năm 2005, Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đã đưa ra định nghĩa xung đột lợi ích như sau: “Một xung đột lợi ích bao gồm xung đột giữa công vụ và lợi ích cá nhân của công chức, trong đó lợi ích từ năng lực cá nhân của công chức có thể ảnh hưởng không đúng đến việc thực hiện những nhiệm vụ và trách nhiệm chính thức của họ”[1]. Định nghĩa này đã xác định rõ sự vật xung đột là lợi ích cá nhân của công chức và trách nhiệm chính thức của họ.

Từ nhận thức về bản chất của xung đột lợi ích, có thể quan niệm “xung đột lợi ích là tình huống trong đó lợi ích cá nhân của cán bộ, công chức có thể ảnh hưởng không đúng đắn đến việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, công chức đó”. Lợi ích cá nhân bao gồm mọi lợi ích vật chất và phi vật chất của cán bộ, công chức. Chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, công chức là tất cả những việc công chức phải làm trong phạm vi chức vụ, quyền hạn của mình, bao gồm việc ra quyết định hoặc những hành vi khác. “Ảnh hưởng không đúng đắn” được hiểu là những ảnh hưởng theo chiều hướng tiêu cực tới việc thực hiện chức trách nhiệm vụ, làm cho việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ không còn bảo đảm tính khách quan, vô tư.

Xung đột lợi ích và tham nhũng có một số điểm tương đồng và khác biệt. Về chủ thể, xung đột lợi ích và tham nhũng có cùng chủ thể là cán bộ, công chức. Về trạng thái, xung đột lợi ích là tình huống, tham nhũng là hành vi. Về tính chất, xung đột lợi ích mang tính khách quan, tham nhũng là hành vi chủ quan của cán bộ, công chức. Trong tình huống xung đột lợi ích, hành vi của cán bộ, công chức bị coi là tham nhũng khi lựa chọn lợi ích cá nhân. Như vậy, có thể khẳng định, xung đột lợi ích, nếu không được nhận diện và kiểm soát đúng đắn, chính là tiền đề, là điều kiện thuận lợi làm nảy sinh tham nhũng.

Theo Từ điển Tiếng Việt, “kiểm soát là xem xét để phát hiện sai sót, giữ cho mọi việc diễn ra đúng đắn”[2]. Theo nghĩa từ ngữ, có thể suy ra kiểm soát xung đột lợi ích là việc xem xét để phát hiện xung đột lợi ích, giữ cho xung đột lợi ích không bị lợi dụng để thực hiện hành vi sai trái. Tuy nhiên, trong trường hợp cụ thể là kiểm soát xung đột lợi ích, nội hàm khái niệm kiểm soát cần được mở rộng. Theo đó, kiểm soát xung đột lợi ích không chỉ gồm việc phát hiện và xử lý xung đột lợi ích mà còn bao hàm cả việc phòng ngừa xung đột lợi ích. Phòng ngừa xung đột lợi ích có ý nghĩa rất quan trọng. Thực tế ở nhiều nước cho thấy kiểm soát xung đột lợi ích hiệu quả đòi hỏi phải tập trung vào việc xác định khả năng lợi ích cá nhân có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ công để phòng ngừa hơn là việc phát hiện hành vi sai phạm. Từ nhận định trên, có thể quan niệm “kiểm soát xung đột lợi ích là việc phòng ngừa, phát hiện và xử lý xung đột lợi ích”.

2. Nội dung và phương thức kiểm soát xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ

Từ quan niệm kiểm soát xung đột lợi ích, có thể xác định kiểm soát xung đột lợi ích gồm ba nội dung chủ yếu: (i) phòng ngừa xung đột lợi ích, (ii) phát hiện xung đột lợi ích, (iii) xử lý xung đột lợi ích. Mỗi nội dung kiểm soát sẽ được thực hiện theo những phương thức nhất định.Việc phân biệt các phương thức khác nhau trong mỗi nội dung kiểm soát chủ yếu dựa trên yếu tố chủ thể. Xem xét một cách tổng thể, có thể thấy có 3 nhóm chủ thể tham gia vào việc kiểm soát xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ. Thứ nhất là bản thân cán bộ, công chức, chủ thể này sẽ tham gia vào cả quá trình kiểm soát, bao gồm từ việc phòng ngừa đến việc phát hiện và xử lý. Thứ hai là cơ quan nhà nước, chủ thể này cũng tham gia vào toàn bộ quá trình kiểm soát. Thứ ba là xã hội (bao gồm cá nhân, cơ quan, tổ chức), chủ thể này chỉ tham gia vào việc phát hiện xung đột lợi ích. Mỗi chủ thể sẽ sử dụng những phương thức khác nhau khi tham gia vào từng nội dung kiểm soát.

2.1. Phòng ngừa xung đột lợi ích

Phương thức cơ quan nhà nước phòng ngừa xung đột lợi ích được thực hiện trên cơ sở nhà nước ban hành các quy định nhằm bảo đảm tính khách quan, vô tư của việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ, bảo đảm việc sử dụng quyền lực công được kiểm soát từ nhiều phía. Phạm vi những quy định này là rất rộng, từ những quy định mang tính nguyên tắc cho đến những quy định cụ thể trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước. Việc thực hiện quyền lực càng khép kín bao nhiêu thì nguy cơ xảy ra xung đột lợi ích, nguy cơ dẫn đến tham nhũng càng lớn bấy nhiêu. Vì vậy, điểm mấu chốt để phòng ngừa xung đột lợi ích chính là sự kiểm soát việc thực hiện quyền lực. Quyền lực càng bị kiểm soát chặt chẽ từ nhiều phía thì khả năng xảy ra xung đột lợi ích càng giảm.

2.2. Phát hiện xung đột lợi ích

Có thể hiểu phát hiện xung đột lợi ích là việc tìm ra những tình huống xung đột lợi ích tiềm ẩn hoặc thực tế. Xung đột lợi ích ở đây không còn ở dạng nguy cơ nữa mà nó đã trở nên dễ nhận thấy hơn, tình huống xung đột lợi ích là có thể dự đoán được hoặc có thể thấy rõ. Ví dụ, Công chức A làm việc cho cơ quan B, sở hữu cổ phần trong công ty xây dựng C, công ty này có thể sẽ tham gia đấu thầu hợp đồng xây dựng trụ sở làm việc của cơ quan B. Ở đây đã xuất hiện xung đột lợi ích tiềm ẩn, có thể dự đoán được về nguy cơ xung đột nếu công ty C tham gia đấu thầu và công chức A tham gia chấm thầu. Khi thực tế diễn ra đúng như dự đoán, công ty C tham gia đấu thầu và công chức A được cử tham gia hội đồng chấm thầu. Tình huống này đã trở thành xung đột lợi ích hiện hữu. Ai cũng có thể nhận thấy rõ khả năng công chức A sẽ bị ảnh hưởng khi đưa ra quyết định của mình.

Việc phát hiện xung đột lợi ích có thể được thực hiện theo ba phương thức: (i) cán bộ, công chức chủ động phát hiện; (ii) cơ quan nhà nước phát hiện và (iii) xã hội tham gia phát hiện.

Ở phương thức thứ nhất, với giả thiết cán bộ, công chức hiểu đúng về xung đột lợi ích thì có lẽ chính họ là nhóm chủ thể biết rõ nhất về tình trạng xung đột lợi ích của bản thân. Chính họ là người biết rõ nhất mình thực hiện nhiệm vụ được giao có bảo đảm tính khách quan, vô tư hay không. Tuy nhiên, để thực hiện phương thức này, cán bộ, công chức rất cần đến sự hỗ trợ từ phía cơ quan nhà nước thông qua những quy định cụ thể về xác định như thế nào là một tình huống xung đột lợi ích, các bước cần thực hiện khi cán bộ, công chức nghi ngờ về tình huống xung đột lợi ích của bản thân. Cơ quan nhà nước cũng cần thiết lập bộ phận chuyên trách làm nhiệm vụ tư vấn giúp cán bộ, công chức xác định và xử lý tình huống xung đột lợi ích.

Ở phương thức thứ hai, cơ quan nhà nước, thông qua hoạt động quản lý của mình, sẽ chủ động nắm bắt thông tin để xác định các tình huống xung đột lợi ích của cán bộ, công chức. Nhiệm vụ này thường được giao cho cơ quan chuyên trách về tổ chức cán bộ. Việc phát hiện xung đột lợi ích của cán bộ, công chức được cơ quan nhà nước thực hiện tại nhiều thời điểm, trong đó đáng lưu ý là tại thời điểm tiếp nhận công chức, tại thời điểm giao nhiệm vụ thường xuyên hoặc một nhiệm vụ đột xuất. Vai trò chủ động phát hiện xung đột lợi ích của cơ quan nhà nước còn được thể hiện ở việc cơ quan nhà nước chủ động hướng dẫn cán bộ, công chức tự phát hiện xung đột lợi ích trên cơ sở các quy định về đạo đức công vụ do nhà nước ban hành.

Ở phương thức thứ ba, xã hội được coi là chủ thể độc lập và khách quan nhất, có vai trò quan trọng trong việc phát hiện xung đột lợi ích của cán bộ, công chức. Trong hai phương thức đầu, mặc dù có ưu điểm là chủ thể thực hiện có nhiều điều kiện thuận lợi về thông tin, về nguồn lực song lại có nhược điểm rất lớn là cán bộ, công chức thì thường không tự giác, cơ quan nhà nước có thể không khách quan. “Xã hội” được hiểu là mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức mà không phải là bản thân cán bộ, công chức và những cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm soát xung đột lợi ích. Với phạm vi chủ thể rộng như vậy, xã hội có khả năng nắm bắt nhiều thông tin phong phú, đa dạng và tương đối chính xác về tình huống xung đột lợi ích của cán bộ, công chức. Đây chính là những căn cứ quan trọng để phát hiện tình huống xung đột lợi ích của cán bộ, công chức.

Công cụ chủ yếu để phát hiện xung đột lợi ích chính là quy định về công khai, minh bạch những lợi ích cá nhân có nguy cơ xung đột với chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, công chức, công khai việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ và những quy định về quyền khiếu nại, tố cáo của cá nhân, tổ chức. Ở các quốc gia trên thế giới, việc công khai, minh bạch những lợi ích cá nhân có nguy cơ xung đột với việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ thường được thực hiện thông qua công khai, minh bạch tài sản, thu nhập. Nội dung công khai, minh bạch tài sản thu nhập thường bao gồm cả công việc làm thêm và các loại quà tặng. Công khai tài sản, thu nhập giúp cung cấp những thông tin về các nguồn thu nhập, địa vị thành viên hội đồng quản trị doanh nghiệp, quyền sở hữu cổ phần và những lợi ích tài chính khác của cán bộ, công chức. Công khai tài sản, thu nhập tự nó không loại bỏ xung đột lợi ích nhưng có thể giúp phát hiện những xung đột lợi ích ở dạng tiềm tàng hay thực tế.

2.3. Xử lý xung đột lợi ích

Đây là khâu cuối cùng trong chuỗi các hoạt động kiểm soát xung đột lợi ích, theo đó, xử lý xung đột lợi ích có thể hiểu là việc loại bỏ xung đột lợi ích bằng cách loại bỏ một trong các bên lợi ích trong tình huống xung đột hoặc kiểm soát chặt chẽ tình huống xung đột, không để tình huống xung đột làm ảnh hưởng đến tính khách quan của việc thực hiện nhiệm vụ. Xử lý xung đột lợi ích phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên bảo vệ lợi ích công. Xử lý xung đột lợi ích được thực hiện theo hai phương thức: (i) cán bộ, công chức chủ động xử lý khi phát hiện mình đang ở trong tình huống xung đột lợi ích bằng cách từ bỏ lợi ích cá nhân hoặc từ chối thực hiện nhiệm vụ, trường hợp không thể thực hiện được thì báo cáo với cơ quan có thẩm quyền để giám sát chặt chẽ việc thực hiện nhiệm vụ; (ii) cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý tình huống xung đột lợi ích bằng cách phân công người khác thực hiện nhiệm vụ, trường hợp không thể thực hiện được thì phải giám sát chặt chẽ việc thực hiện nhiệm vụ đó. Cách thức xử lý xung đột lợi ích đối với cán bộ, công chức thường được đưa vào quy tắc ứng xử.

3. Khái quát quy định của pháp luật hiện hành về kiểm soát xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ

Khung pháp lý chung về kiểm soát xung đột lợi ích của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam được quy định trong một số luật, nghị định và các văn bản hướng dẫn thi hành. Hiến pháp 2013 có đề cập một phần đến kiểm soát xung đột lợi ích thông qua quy định cấm các thành viên của Ủy ban thường vụ Quốc hội đồng thời là thành viên Chính phủ[3]. Những đạo luật chính quy định về xung đột lợi ích và kiểm soát xung đột lợi ích nói chung trong hoạt động công vụ có thể kể đến là: Luật Phòng, chống tham nhũng (ban hành 2005, sửa đổi năm 2007 và 2012), Luật Cán bộ, công chức 2008, Luật Viên chức 2010, Luật Đấu thầu 2013, Luật Thanh tra 2010, Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Kiểm toán 2014, Bộ luật Tố tụng hình sự 2023, Bộ luật Tố tụng dân sự 2023.

Bên cạnh nhưng ưu điểm nói trên, quy định của pháp luật về kiểm soát xung đột lợi ích vẫn những một số hạn chế nhất định.

Thứ ba, quy định về minh bạch tài sản tuy khá đầy đủ và bài bản nhưng chưa rõ về những lợi ích cá nhân tài chính là nguy cơ xung đột lợi ích của cán bộ, công chức như công việc làm thêm hay quà tặng. Đồng thời, những thông tin về tài sản, thu nhập của cán bộ công chức chưa được quy định là căn cứ cho việc xem xét, phát hiện xung đột lợi ích của cán bộ, công chức trong hoạt động công vụ.

Thứ tư, quy định của pháp luật hiện hành chưa đề cập một cách đầy đủ và thích hợp vai trò và trách nhiệm của nhà nước trong việc hướng dẫn cán bộ, công chức chủ động phòng ngừa, phát hiện và xử lý tình huống xung đột lợi ích mà chủ yếu dồn trách nhiệm lên cá nhân cán bộ, công chức với những quy định cấm đơn thuần. Điều này tạo ra rất nhiều khó khăn cho cán bộ, công chức trong quá trình thực hiện. Trường hợp cán bộ, công chức phát hiện xung đột lợi ích của bản thân mà tự mình không thể xử lý được thì cũng không biết báo cáo với ai, nếu đó là những tình huống tế nhị mà cán bộ, công chức muốn giữ kín thông tin thì cũng chưa có cách nào để giải quyết cho phù hợp.

Thứ năm, quy định về kiểm soát quà tặng còn hình thức, thiếu tính khả thi, thiếu quy định cụ thể về trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc tiếp nhận và xử lý kịp thời báo cáo về quà tặng của cán bộ, công chức, chưa có quy định rõ về chế tài xử lý vi phạm.

Thứ sáu, các quy định về kiểm soát xung đột lợi ích của cán bộ, công chức nói chung, về căn bản, mới chỉ dừng lại ở bản thân cán bộ, công chức đó mà chưa được mở rộng tới các thành viên trong gia đình hoặc những người có mối quan hệ thân thiết khác với cán bộ, công chức. Ví dụ, quy định về hạn chế nhận quà tặng thì không áp dụng đối với các thành viên trong gia đình của công chức. Như vậy, công chức hoàn toàn có thể nhận quà tặng thông qua những người thân của mình mà không hề vi phạm pháp luật.

4. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát xung đột trong hoạt động công vụ trong giai đoạn hiện nay.

Thứ nhất, cần có quy định thống nhất cách hiểu về xung đột lợi ích, các dấu hiệu nhận biết tình huống xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ nói chung, trong hoạt động thanh tra nói riêng, quy định chung về trách nhiệm, nội dung và phương thức kiểm soát xung đột lợi ích.

Thứ hai, nghiên cứu, rà soát và quy định cụ thể, chi tiết hơn những hạn chế về lợi ích cá nhân đối với cán bộ, công chức tiềm ẩn nguy cơ xung đột lợi ích, đặc biệt là vấn đề nhận quà tặng và công việc làm thêm.

Hạn chế về nhận quà tặng nên được quy định theo hướng giảm thiểu mọi nguy cơ có thể phát sinh, có thể tham khảo kinh nghiệm một số quốc gia[4] quy định cấm cán bộ, công chức nhận quà tặng dưới mọi hình thức, trường hợp không thể từ chối thì phải báo cáo và nộp lại quà tặng cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền, có thể trả tiền để mua lại nếu muốn giữ quà tặng đó. Quà tặng thường được cho là biểu hiện về mặt văn hóa, tuy nhiên nét văn hóa này trên thực tế đã bị lợi dụng. Đa số cán bộ, công chức, doanh nghiệp và người dân đều nhận thức rằng, hiện nay việc tặng quà không phản ánh nét đẹp văn hóa[5]. Quy định này cũng cần phải được nghiên cứu áp dụng trong hoạt động thanh tra.

Thứ ba, sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật về minh bạch tài sản, thu nhập theo hướng kê khai rõ hơn về quà tặng và công việc làm thêm, quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc sử dụng thông tin kê khai tài sản, thu nhập để xem xét, phát hiện tình huống xung đột lợi ích của cán bộ, công chức, nghiên cứu mở rộng phạm vi và hình thức công khai bản kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.

Thứ tư, quy định rõ trách nhiệm của cán bộ, công chức, của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc phòng ngừa, phát hiện và xử lý tình huống xung đột lợi ích, đặc biệt nhấn mạnh vai trò của nhà nước trong việc hướng dẫn, giúp đỡ, hỗ trợ công chức thực hiện việc kiểm soát xung đột lợi ích của bản thân.

Thứ năm, sửa đổi, bổ sung các quy định về kiểm soát quà tặng của cán bộ, công chức, quy định rõ trình tự, thủ tục tiếp nhận và xử lý thông tin về quà tặng, tiếp nhận và xử lý quà tặng do cán bộ, công chức nộp lại trong trường hợp không thể từ chối.

Thứ sáu, nghiên cứu mở rộng phạm vi điều chỉnh một số quy định về kiểm soát xung đột lợi ích, không dừng lại ở bản thân cán bộ, công chức mà cần phải mở rộng ra các chủ thể khác có mối quan hệ gần gũi với cán bộ, công chức.

ThS. Lê Thị Thúy – Viện Khoa học thanh tra

“Nhiều Xung Đột Lợi Ích Khu Vực Công Đã Thành Luật Chơi”

“Hiểu biết về xung đột lợi ích trong xã hội và trong bản thân cán bộ, công viên chức còn hạn chế, nhiều hình thức xung đột lợi ích khác nhau ở khu vực công đã trở thành luật chơi, gây suy giảm hiệu quả và liêm chính trong các thiết chế công”.

Kết luận trên được đưa ra trong báo cáo “Kiểm soát xung đột lợi ích trong khu vực công – Quy định và thực tiễn ở Việt Nam”, do Ngân hàng Thế giới (WB) và Thanh tra Chính phủ công bố ngày 9/11.

Theo báo cáo, Việt Nam đã đạt được những thành tựu nổi bật về phát triển kinh tế trong ba thập kỷ vừa qua. Tuy nhiên quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường đã thúc đẩy tương tác ngày càng tăng giữa khu vực công và tư, và do đó cần phải giải quyết những xung đột lợi ích phát sinh trong quá trình tương tác này thông qua luật pháp và thực thi chính sách tốt hơn.

Việt Nam cũng có thể nâng cao liêm chính và hiệu quả của khu vực công bằng cách bổ sung quy định và pháp luật kiểm soát các hình thức xung đột lợi ích phổ biến như nhận quà biếu, ưu ái người thân, hoặc sử dụng thông tin nội bộ để trục lợi cá nhân.

Trong khi đó, theo Giám đốc Quốc gia của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam Ousmane Dione, Việt Nam khát vọng trở thành một quốc gia thịnh vượng với thể chế hiện đại vào năm 2035, do đó kiểm soát xung đột lợi ích là điều kiện thiết yếu để đạt được khát vọng đó, vì nó giúp định hình các thể chế, luật lệ và quy định của nhà nước và thị trường cho thế hệ tiếp theo.

Báo cáo của WB đã đánh giá một cách toàn diện về mức độ phổ biến của xung đột lợi ích trong sáu lĩnh vực hoạt động của khu vực công: cung cấp dịch vụ công; tuyển dụng và bổ nhiệm, đấu thầu; cấp phép và phê duyệt dự án; thanh tra và kiểm tra; xử lý vi phạm.

Kết quả khảo sát người dân, doanh nghiệp, cán bộ, công chức và viên chức cho thấy đòi hỏi ngày càng tăng của xã hội về sự minh bạch, hiệu quả và liêm chính trong các quyết định phân bổ nguồn lực công.

Báo cáo cũng cho thấy quản lý đấu thầu, cấp phép và phê duyệt dự án, bổ nhiệm và tuyển dụng là ba lĩnh vực với các tình huống xung đột lợi ích phổ biến nhất.

Để kiểm soát xung đột lợi ích hiệu quả, báo cáo đưa ra ba nhóm khuyến nghị, trong đó có việc nâng cao nhận thức và hiểu biết về xung đột lợi ích cho cán bộ, công chức, viên chức, người dân và doanh nghiệp.

Cùng với đó là cải thiện chính sách và pháp luật về kiểm soát xung đột lợi ích. Báo cáo cũng khuyến nghị Chính phủ thông qua một định nghĩa thống nhất về xung đột lợi ích cũng như cơ chế ngăn ngừa, phát hiện và xử lý vi phạm về xung đột lợi ích trong khuôn khổ pháp lý về quản trị công ở Việt Nam.

Ngoài ra, Chính phủ cần mở rộng phạm vi áp dụng của các quy định về xung đột lợi ích, như nhận quà biếu, việc làm ngoài công vụ, kê khai thu nhập – tài sản cho các chủ thể có quan hệ mật thiết với công chức.

Xung Đột Lợi Ích, Giải Quyết Xung Đột, Ví Dụ

Xung đột là một cuộc đối đầu nảy sinh giữa những người tham gia vào quá trình giao tiếp do sự khác biệt về thái độ, thái độ, sở thích, niềm tin, giá trị, mục tiêu. Xung đột được coi là cách gay gắt nhất để giải quyết cuộc đối đầu. Nó bao gồm việc chống lại các bên và thường đi kèm với những cảm xúc tiêu cực, những hành động vượt ra ngoài những chuẩn mực được chấp nhận chung. Đối đầu là không thể tránh khỏi trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống. Do đó, cần nghiên cứu các phương pháp giải quyết xung đột để giảm tác động phá hoại của chúng và giảm thiểu rủi ro về hậu quả tiêu cực.

Xung đột lợi ích

Xung đột lợi ích, nó là gì?

Xung đột lợi ích đề cập đến mâu thuẫn nảy sinh giữa lợi ích cá nhân của cá nhân và nhiệm vụ chuyên môn, quyền hạn chính thức của mình. Sự hiện diện của một mâu thuẫn như vậy có thể ảnh hưởng đến sự công bằng và vô tư của việc ra quyết định, hành động hoặc không hành động trong việc thực hiện các mô tả công việc, quyền hạn chính thức và nhiệm vụ chuyên môn.

Xung đột về các ví dụ về lợi ích có thể được quan sát không chỉ khi một quan chức thực hiện dịch vụ công cộng, mà cả khi làm việc trong doanh nghiệp tư nhân. Trong trường hợp này, xung đột lợi ích sẽ được gọi là mâu thuẫn xảy ra khi một cá nhân hoặc toàn bộ tổ chức hoạt động đồng thời theo nhiều hướng khác nhau và nhiệm vụ của các lĩnh vực hoạt động này khác nhau.

Xung đột lợi ích. Một ví dụ về điều này có thể được tìm thấy trong lĩnh vực chuyên nghiệp ở mọi bước trong tình huống lợi ích cá nhân của nhân viên mâu thuẫn với lợi ích và mục tiêu của doanh nghiệp mà anh ta làm việc. Các tình huống làm phát sinh xung đột lợi ích được quan sát ở khắp mọi nơi. Họ phát sinh giữa các thành viên cùng lớp, những người tham gia vào các mối quan hệ gia đình, trong các nhóm cùng chí hướng, giữa các đồng nghiệp. Các cuộc đối đầu dựa trên sự đối đầu về mục tiêu của những người tham gia tương tác có thể xuất hiện bất kể sự thù địch giữa các cá nhân. Trong mọi trường hợp, một hiện tượng như xung đột lợi ích phải được chấm dứt ngay lập tức, vì nó dẫn đến sự xâm phạm lợi ích của toàn bộ tổ chức.

Ngoài ra, các tình huống đối đầu có thể phát sinh khi quỹ bị giới hạn để đạt được các mục tiêu dự định. Lợi ích quá mức mâu thuẫn với sự khan hiếm các nguồn lực cần thiết để đáp ứng nhu cầu tập thể và cá nhân.

Vì vậy, trả lời từ quan điểm pháp lý của câu hỏi về xung đột lợi ích, đó là gì, chúng ta có thể rút ra định nghĩa sau đây.

Nhìn chung, xung đột lợi ích trong lĩnh vực khởi nghiệp được đặc trưng bởi sự hiện diện của ba thành phần khách quan: tính hai mặt của nhu cầu, thiệt hại lớn, hành động sai trái hoặc che giấu và kết nối khách quan giữa chúng.

Thông thường, xung đột lợi ích xảy ra:

– như một sự phản đối cá nhân về lợi ích và như một xung đột lợi ích của tổ chức;

– trong tình huống lợi ích cá nhân của cá nhân, chẳng hạn như: tài sản tài chính tư nhân và các mối quan hệ nghề nghiệp bên ngoài tổ chức, tham gia vào một cuộc đối đầu tưởng tượng hoặc thực sự với các nhiệm vụ mà anh ta thực hiện, được gọi là xung đột lợi ích cá nhân. Xung đột tổ chức xảy ra khi: một tổ chức không thể cung cấp dịch vụ một cách khách quan do các hoạt động khác;

– sự vô tư của tổ chức bị vi phạm hoặc có thể bị vi phạm trong việc thực hiện các nghĩa vụ được giao cho nó;

– tổ chức này có lợi thế cạnh tranh quá lớn.

Xung đột lợi ích. Một ví dụ là như sau. Sự không tương thích về lợi ích thường được quan sát thấy trong dịch vụ công cộng, khi một cá nhân có trách nhiệm đưa ra quyết định sử dụng vốn ngân sách có bất kỳ mối quan hệ nào với một công ty, doanh nghiệp, tổ chức là một trong những ứng cử viên nhận được các khoản tiền đó trong trường hợp đấu thầu cạnh tranh.

Giải quyết xung đột lợi ích được coi là một trong những nhiệm vụ chính của các cơ chế chống tham nhũng, đồng thời, là một phương tiện để đảm bảo tiến trình quan hệ chính thức.

Ngày nay, khi tạo ra một mô hình hành vi của công ty, nhiều doanh nghiệp thương mại bao gồm một mô tả về những xung đột có thể có của nhu cầu và cách để ngăn chặn chúng. Trong số các tình huống tiềm năng phổ biến nhất của cuộc đối đầu là:

– tiết lộ cho các công ty cạnh tranh (quan tâm), các công ty thông tin bí mật của công ty;

– sử dụng các cơ hội mà tổ chức cung cấp để gây bất lợi cho tổ chức này vì mục đích hiện thực hóa các mục tiêu và lợi ích của chính mình;

– việc thông qua các khoản vay và thuyết trình từ khách hàng hoặc nhà cung cấp, dẫn đến sự xuất hiện của một số nghĩa vụ mâu thuẫn với các nhiệm vụ và nhu cầu của tổ chức;

– liên lạc với các công ty, khách hàng hoặc nhà cung cấp cạnh tranh để có được lợi ích cho chính người thân hoặc họ hàng của họ.

Cần đặc biệt chú ý đến việc giải quyết xung đột lợi ích phát sinh trong dịch vụ công ở nước ngoài. Thực tiễn thế giới xem xét những mâu thuẫn như vậy dưới ba hình thức: gia đình trị, chủ nghĩa kronism và chủ nghĩa vận động hành lang nhúng.

Nepotism là việc cung cấp các bài đăng và vị trí cho các cá nhân mà người sử dụng lao động trong mối quan hệ gia đình và các mối quan hệ.

Cronism được tiết lộ trong việc bổ nhiệm công chức vào các chức vụ cao nhất của bạn bè, đối tác thân mật hoặc đồng nghiệp kinh doanh. Vận động hành lang tích hợp được quan sát thấy khi một đại diện của doanh nghiệp tư nhân có được một vị trí trong lĩnh vực dịch vụ công cộng mà anh ta thực hiện công việc kinh doanh của mình.

Giải quyết xung đột

Các nhà tâm lý học và nhà xung đột làm việc trong lĩnh vực tìm kiếm giải pháp để giải quyết các tình huống đối đầu đưa ra các phương pháp giải quyết xung đột sau đây.

Ở lượt đầu tiên, họ khuyên bạn không nên tiếp tục cuộc đối đầu. Các nhà lý luận xung đột đã đề xuất một cuộc thi đối đầu mở. Theo thỏa thuận sơ bộ, người chiến thắng trong một cuộc thi như vậy được đưa ra đối tượng xung đột, và bên thua cuộc phải tự nguyện từ bỏ quyền sở hữu đối tượng của cuộc đối đầu. Tùy chọn này được coi là một trong những chấp nhận được nhất.

Các nhà tâm lý học cũng khuyên không nên bắt đầu một cuộc cãi vã, nhưng cố gắng đồng ý về một sự hợp tác hiệu quả, kết quả của nó sẽ là sự chiếm hữu bình đẳng của tất cả các bên của đối tượng xung đột.

Một cách riêng biệt, các phương pháp giải quyết xung đột lợi ích phát sinh từ dịch vụ trong các cơ quan nhà nước nên được nêu rõ. Bốn phương pháp như vậy được phân biệt: chủ động, tiết lộ, từ chối tự nguyện, giám sát.

Phương pháp phòng ngừa là ngăn chặn sự xuất hiện của xung đột lợi ích. Phương pháp này được coi là hiệu quả nhất trong việc chống tham nhũng. Một ví dụ về phương pháp được mô tả là sự từ chối của quan chức được bổ nhiệm vào chức vụ từ phần vốn của doanh nghiệp.

Trong hệ thống các cơ quan nhà nước, các tổ chức được ủy quyền đặc biệt nhằm chống tham nhũng được giám sát. Các tổ chức như vậy giám sát việc tuân thủ các yêu cầu của khung pháp lý, các yêu cầu đối với hành vi của các quan chức và giải quyết xung đột lợi ích.

Giải quyết mâu thuẫn một cách có thẩm quyền và kịp thời là chìa khóa cho sức khỏe tinh thần của mọi người, vì bất kỳ cuộc đối đầu nào cũng làm nảy sinh mâu thuẫn, phân đôi, bất hòa trong đội. Đồng thời, xung đột cũng là điều kiện cần thiết để hợp nhất nhóm và đưa nó đến một vòng phát triển mới có chất lượng.

Quản lý xung đột được coi là một kỹ năng quan trọng cho một nhà lãnh đạo thành công. Thật vậy, như họ nói, sự thiếu hiểu biết về các khía cạnh của quản lý xung đột trong nhóm không làm giảm trách nhiệm của các ông chủ.

Các cuộc đối đầu trong các tổ chức được phân loại theo định hướng và theo chiều ngang, dọc và hỗn hợp.

Xung đột ngang được gây ra bởi cạnh tranh và so sánh. Dọc – quan sát giữa các cá nhân là cấp dưới, nghĩa là giữa cấp trên và cấp dưới. Đối đầu hỗn hợp, tương ứng, là cả đối đầu dọc và ngang.

Có thể giải quyết xung đột giữa người lãnh đạo và cấp dưới, trong nhóm:

– công nhận thực tế về sự tồn tại của một tình huống đối đầu, sự hiện diện của một người tham gia đối lập và yêu sách của anh ta;

– một ý tưởng rõ ràng về nội dung của các lợi ích xung đột;

– chuẩn bị đối thủ cho việc áp dụng các chuẩn mực chung về hành vi.

Đối với mỗi nhà lãnh đạo, nếu anh ta quan tâm đến sự thịnh vượng của tổ chức của mình, điều rất quan trọng là môi trường tâm lý trong nhóm có ảnh hưởng có lợi đến bản chất và chất lượng của công việc tập thể của nhân viên.

Ngày nay, một trong những điều kiện chính cho người lãnh đạo Hoạt động hiệu quả của nhà lãnh đạo được coi là nhận thức tâm lý xã hội của anh ta, tạo nên sự chuẩn bị và năng lực xung đột.

Năng lực xung đột, giải quyết xung đột có thẩm quyền và hiệu quả giữa người lãnh đạo và cấp dưới, trong nhóm bao gồm:

– Nhận thức về bản chất của sự va chạm, bất đồng, xung đột giữa các chủ thể;

– phát triển thái độ xây dựng giữa bản thân và nhân viên đối với những mâu thuẫn trong tổ chức;

– Sở hữu kỹ năng giao tiếp không xung đột trong các tình huống khó khăn;

– khả năng phân tích và giải thích các tình huống vấn đề mới nổi;

– khả năng phát triển các nguyên tắc hữu ích của các cuộc đối đầu mới nổi;

– sự hiện diện của các kỹ năng để quản lý các hiện tượng đối đầu;

– khả năng lường trước hậu quả có thể xảy ra của xung đột;

– sự hiện diện của các kỹ năng để loại bỏ các hậu quả tiêu cực của mâu thuẫn;

– khả năng quản lý xây dựng va chạm, cãi vã, tranh chấp và xung đột.

Giải quyết xung đột buộc các nhà lãnh đạo phải đóng vai trò là bên thứ ba. Nói cách khác, ông chủ là một người trung gian tìm cách khôi phục sự cân bằng tâm lý trong đội. Các hoạt động của nhà lãnh đạo với tư cách là một trung gian bao gồm đánh giá và phân tích tình hình, cũng như trực tiếp giải quyết xung đột.

Phân tích và đánh giá tình huống đối đầu bao gồm lấy thông tin về đối tượng va chạm, thu thập thông tin về nó, kiểm tra dữ liệu thu được, xác minh độ tin cậy của chúng, phân tích tình huống xung đột.

Quá trình giải quyết mâu thuẫn bao gồm lựa chọn phương tiện để giải quyết, như hòa giải, thực hiện phương pháp đã chọn, sàng lọc dữ liệu và quyết định, giảm hoặc loại bỏ căng thẳng sau xung đột trong quan hệ của đối thủ, phân tích kinh nghiệm trong quản lý xung đột.

Tuy nhiên, vấn đề cấp bách nhất hiện nay không phải là giải quyết xung đột trong lĩnh vực chuyên môn, mà là khả năng giải quyết những bất đồng nảy sinh trong môi trường thiếu niên.

Trong nhiều năm, các nhà tâm lý học, nhà xã hội học đã nghiên cứu các vấn đề của tuổi dậy thì, nhưng cho đến ngày nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết. Tuổi vị thành niên được coi là độ tuổi gây tranh cãi nhất và đặc biệt nhạy cảm. Khi trẻ đến tuổi dậy thì, chúng cố gắng sống tách biệt với người lớn, chúng tạo ra một văn hóa nhóm đặc biệt dựa trên những chuẩn mực nhất định, nguyên tắc đạo đức, niềm tin. Nó được đặc trưng bởi các hình thức cụ thể của hành vi, quần áo đặc biệt, một ngôn ngữ đặc biệt, biểu tượng ban đầu, thuộc tính và nghi lễ. Văn hóa nhóm này là không thể hiểu được đối với người lớn, những người coi thanh thiếu niên là trẻ em không thể đưa ra quyết định độc lập và có cảm xúc nghiêm trọng. Hiểu lầm của người lớn là một trong những thành phần chính của sự bất đồng trong môi trường thiếu niên.

Xung đột đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành các phẩm chất mới của nhân vật và trong sự biến đổi cá nhân.

Tương tác xung đột ở tuổi dậy thì xảy ra theo ba hướng: một thiếu niên – một thiếu niên, một thiếu niên – cha mẹ và một thiếu niên – giáo viên.

Trong số thanh thiếu niên, tương tác xung đột dựa trên sự đối đầu, mục tiêu của nó là lãnh đạo. Ở đây, các yếu tố chính của một phong cách hành vi mâu thuẫn là địa vị, mức độ yêu sách ( tham vọng ) và lòng tự trọng .

Do đó, chúng ta có thể rút ra một thuật toán duy nhất để giải quyết các xung đột trường học:

– trong lượt đầu tiên, cần phải giữ bình tĩnh;

– thứ hai, cần phân tích các tình huống không có thăng trầm;

– thứ ba, điều quan trọng là duy trì một cuộc đối thoại cởi mở giữa các đối thủ, để có thể lắng nghe phía đối lập, bình tĩnh nêu quan điểm của riêng bạn về vấn đề;

– thứ tư, cần phải khám phá các mục tiêu và phương pháp chung để giải quyết vấn đề, điều này sẽ cho phép chúng ta đi đến những mục tiêu này;

– thứ năm, bắt buộc phải dự trữ các kết quả sẽ cho phép chúng tôi tránh các cuộc đụng độ tương tự trong tương lai.

Giải quyết xung đột ở tuổi thiếu niên có thể đạt được theo ba cách: đàn áp, nhượng bộ (thỏa hiệp) và hợp tác.

Trái với niềm tin phổ biến, việc giải quyết xung đột ở tuổi vị thành niên thông qua sự đàn áp không phải lúc nào cũng quá tệ. Ví dụ, trong những tình huống cực kỳ khó khăn. Ức chế bao gồm việc đặt trách nhiệm lên vai của chính mình theo nghĩa tích cực của nó. Tuy nhiên, việc lạm dụng phong cách quản lý xung đột này dẫn đến sự phát triển của sự phục tùng do sợ hãi , cay đắng, bí mật và không có khả năng đưa ra quyết định.

Một cách thỏa hiệp để giải quyết quá trình xung đột là sự nhượng bộ lẫn nhau.

Phương pháp giải quyết các bất đồng thông qua hợp tác dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau của các bên, kỹ năng giao tiếp và các quyết định mang tính xây dựng.

Giải quyết xung đột ở tuổi thiếu niên cũng có thể đạt được bằng các kỹ thuật sau:

– cách tiếp cận sáng tạo (biến vấn đề thành cơ hội tiềm năng cho bản thân);

– tự khẳng định tối ưu, bao gồm tấn công một vấn đề cụ thể, và không phải trên cá nhân;

– quản lý cảm xúc;

– phát triển các lựa chọn thay thế;

– lập kế hoạch hiệu quả, phát triển các lựa chọn cho chiến lược (đàm phán);

– trung gian.

Giải quyết xung đột

Cho dù mọi người cố gắng tránh đụng độ như thế nào trong cuộc sống hàng ngày, điều này là không thể. Xung đột là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Do đó, cần nghiên cứu các cơ chế phát sinh mâu thuẫn, để biết các hướng có thể của quá trình và sự phát triển của các cuộc đối đầu, và cũng để biết cách ngăn chặn và giải quyết chúng.

Việc lựa chọn phương pháp ngăn chặn và quản lý cuộc đối đầu được xác định bởi sự ổn định về cảm xúc của cá nhân, phương tiện sẵn có để bảo vệ lợi ích của một người khác, số lượng quyền hạn có sẵn và một số yếu tố khác.

Ngoài ra, bạn cần hiểu rằng việc giải quyết xung đột phụ thuộc vào phương pháp giải quyết xung đột được chọn.

Một ví dụ về xung đột và giải pháp của nó trong các mối quan hệ gia đình. Trong một gia đình của cặp vợ chồng mới cưới sống trên lãnh thổ của cha mẹ của một trong các bên, nảy sinh mâu thuẫn giữa hai vợ chồng vì những bất đồng về cuộc sống gia đình: người đàn ông tin rằng vợ / chồng nên làm tất cả việc nhà vì cô ta là phụ nữ. Ngược lại, người phối ngẫu tin rằng cả hai đối tác nên tham gia vào các hoạt động gia đình, tùy thuộc vào khối lượng công việc và thời gian rảnh rỗi. Nếu vợ chồng chọn một mô hình hành vi phá hoại trong một vụ va chạm, thì cha mẹ sống với họ cũng sẽ tham gia vào cuộc đối đầu, do đó mâu thuẫn có thể đạt đến tỷ lệ như vậy mà không thể giải quyết mà không mất.

Một giải pháp mang tính xây dựng cho xung đột là có thể theo thuật toán phổ quát sau đây. Bước đầu tiên trong việc giải quyết một vấn đề cấp bách là thiết lập một bầu không khí tin cậy có lợi cho sự hợp tác. Nói cách khác, nếu người vợ bắt đầu cuộc trò chuyện bằng một tiếng khóc hoặc trách móc, không chắc họ có thể giải quyết một cách xây dựng mâu thuẫn. Giai đoạn tiếp theo là sự phối hợp trong nhận thức của đối thủ. Ở đây, một trong các bên tham chiến phải đồng ý với lập luận của bên kia, ít nhất là một phần. Nếu không, phía bên kia sẽ không muốn lắng nghe các đối số của đối thủ. Sự đồng ý, thậm chí một phần, sẽ làm giảm mong muốn của phía đối lập để chứng minh sự vô tội của chính họ và tăng mong muốn lắng nghe người đối thoại. Sau khi cả hai bên xung đột lắng nghe những tranh luận của nhau và đồng ý một phần với họ, chúng ta có thể tiến hành giai đoạn tiếp theo – điều phối lợi ích của đối thủ (tìm kiếm sự thỏa hiệp). Giai đoạn thứ tư là việc thông qua các quyết định nhằm giải quyết xung đột và tính đến lợi ích của cả hai bên tham gia. Trong trường hợp này, cần phải phân chia công việc gia đình hàng ngày giữa vợ hoặc chồng hoặc phân chia công việc gia đình theo ngày trong tuần. Bước cuối cùng là thực hiện các thỏa thuận đạt được.

Lượt xem: 29 051

Cập nhật thông tin chi tiết về Luật Và Vấn Đề Xung Đột Lợi Ích trên website Nhatngukohi.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!