Bạn đang xem bài viết Khái Niệm Về Cấu Trúc Vốn Tối Ưu được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Nhatngukohi.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Việc xác định một cấu trúc vốn để đạt hiệu quả cao nhất cho một doanh nghiệp là một vấn đề lớn, rất quan trọng trong tài chính doanh nghiệp bởi đối với doanh nghiệp cả Vốn chủ sở hữu và nợ đều có “ưu điểm” và “nhược điểm”
Lợi ích và bất lợi của doanh nghiệp khi sử dụng “Nợ”
Một trong những ưu điểm lớn nhất của việc dùng nợ thay cho vốn chủ sở hữu đó là lãi suất mà doanh nghiệp phải trả trên nợ được miễn thuế. Hay nói cách khác doanh nghiệp được hưởng lợi từ “lá chắn thuế”. Về nguyên tắc, nếu chúng ta thay vốn chủ sở hữu bằng nợ thì sẽ giảm được thuế doanh nghiệp phải trả, và vì thế tăng giá trị của doanh nghiệp lên. Ưu điểm thứ hai của nợ, đó là thông thường nợ rẻ hơn vốn chủ sỡ hữu (lãi suất vay ngân hàng, hay lãi suất trái phiếu thấp hơn nhiều so với lãi suất kỳ vọng của nhà đầu tư). Như vậy, tăng nợ tức là giảm chi phí chi ra trên một đồng vốn và vì thế tăng lợi nhuận, cũng như giá trị của công ty. Vì tính chất này mà tỷ số nợ trên vốn chủ sỡ hữu còn được gọi là tỷ số đòn bẩy.
Tuy vậy doanh nghiệp không thể tăng nợ lên mức quá cao so với chủ sỡ hữu. Khi đó công ty sẽ rơi vào tình trạng tài chính không lành mạnh và dẫn đến những rủi ro cho doanh nghiệp. Tỷ lệ nợ cao sẽ dẫn đến nguy cơ phá sản. Khi tỷ lệ nợ tăng, doanh nghiệp phải đối mặt với nguy cơ phá sản hay nói cách khác “chi phí khánh tận – bankruptcy cost” bắt đầu xuất hiện và tăng nhanh hơn so với lợi ích từ “lá chắn thuế” mà doanh nghiệp được hưởng do sử dụng nhiều nợ hơn mang lại. Ngoài ra công ty có mức nợ cao còn tác động đến tâm lý của nhà đầu tư và tạo ra sự mâu thuẫn giữa các chủ nợ và nhà đầu tư, khi đó các nhà đầu tư sẽ tìm cách đầu tư dưới mức – underinvestment (tập trung đầu tư vào những dự án rủi ro cao, tạo ra giá trị thấp trong tương lai, nhưng có thể đem lại tiền mặt để có thể chia dưới dạng cổ tức ngay lúc này) trong khi đó những chủ nợ lại muốn công ty đầu tư vào những dự án ít rủi ro và tạo được giá trị cao trong tương lai và mâu thuẫn vì thế phát sinh.
Lợi ích và bất lợi của doanh nghiệp khi sử dụng Vốn chủ sở hữu
Một trong những điểm không thuận lợi của vốn chủ sỡ hữu đó là chi phí của nó cao hơn chi phí của nợ. Vì không nhà đầu tư (chủ sở hữu của doanh nghiệp) nào bỏ tiền đầu tư vào công ty gánh chịu những rủi ro về hoạt động và kết quả kinh doanh của công ty mà lại chịu nhận tiền lãi bằng lãi suất cho vay nợ. Việc này cùng với tính chất không được miễn trừ thuế làm cho chi phí vốn càng cao hơn. Ngoài ta có một điểm không thuận lợi khác, là khi vốn chủ sỡ hữu càng cao, số lượng người chủ sỡ hữu càng nhiều, thì áp lực về kỳ vọng của nhà đầu tư cũng như sự quản lý, giám sát của họ lên các nhà điều hành công ty càng lớn. Tuy vậy vốn chủ sỡ hữu sẽ vẫn phải tăng khi công ty cần tiền. Tăng để cân bằng với nợ và giữ cho công ty ở trong tình trạnh tài chính lành mạnh.
Với các ưu và khuyết điểm của cả Nợ và Vốn chủ sở hữu như đã phân tích ở trên vốn vay với chi phí lãi vay được khấu trừ thuế làm tăng giá trị của doanh nghiệp; giá trị doanh nghiệp đạt mức tối đa nếu sử dụng 100% vốn vay. Tuy nhiên thực tế, sẽ không có doanh nghiệp nào sử dụng 100% vốn vay, bởi vốn vay, ngoài gánh nặng lãi vay, còn tiềm ẩn nhiều rủi ro tài chính. ðó là nguy cơ phá sản nếu gánh nặng lãi vay quá lớn (đặc biệt khi lãi suất thị trường biến động và doanh nghiệp không có một đệm đỡ đó là vốn cổ phần). Do đó, các công ty phải tự quyết định về cấu trúc vốn trên cơ sở cân bằng lợi ích thu được từ vốn vay và những rủi ro tài chính.
Giá trị của doanh nghiệp dùng vốn vay sẽ được tăng thêm nhờ nguồn giảm trừ thuế, nhưng sẽ gánh rủi ro tài chính, rủi ro này sẽ tăng theo tỉ lệ nợ. Giá trị của doanh nghiệp sẽ tăng đến một ngưỡng nhất định, rồi giảm dần do rủi ro tài chính tăng dần.
Vậy, cấu trúc vốn tối ưu là cấu trúc vốn đạt được khi tại đó giá trị công ty lớn nhất, chi phí vốn ở mức thấp nhất. Khái niệm về cấu trúc vốn tối ưuAdmin Mr.Luân
Với kinh nghiệm hơn 10 năm, Luận Văn A-Z nhận hỗ trợ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ một cách UY TÍN và CHUYÊN NGHIỆP. Liên hệ: 092.4477.999 – Mail : luanvanaz@gmail.com ✍✍✍ Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ ✍✍✍
Tối Ưu Hóa Cấu Trúc Vốn – Diplomat
Quyết định tài chính có ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí vốn bình quân gia quyền (WACC). WACC là trung bình trọng số đơn giản của chi phí vốn cổ phần và chi phí nợ. Trọng số tỷ lệ thuận với giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu và nợ; do đó, tỷ lệ vốn chủ sở hữu và nợ biến động, thì WACC cũng vậy. Thế nên điểm quan trọng đầu tiên cần hiểu là, khi một công ty thay đổi cấu trúc vốn (nghĩa là thay đổi hỗn hợp vốn chủ sở hữu và nợ tài chính), nó sẽ tự động dẫn đến thay đổi WACC.
Giá trị thị trường của một công ty = Dòng tiền trong tương lai / WACC
Cần phải lưu ý rằng WACC càng thấp, giá trị thị trường của công ty càng cao – như bạn có thể thấy từ ví dụ đơn giản sau đây; khi WACC là 15%, giá trị thị trường của công ty là 667; và khi WACC giảm xuống còn10%, giá trị thị trường của công ty tăng tới 1.000.
Giá trị thị trường của một công ty
100 / 0,15 = 667
100 / 0,10 = 1.000
Do đó, nếu chúng ta có thể thay đổi cấu trúc vốn để hạ mức WACC xuống, thì chúng ta có thể tăng giá trị thị trường của công ty và từ đó làm tăng được lợi ích cổ đông.
Vì vậy, việc tìm cấu trúc vốn tối ưu trở thành việc tìm WACC thấp nhất, bởi vì khi WACC được tối thiểu hóa thì giá trị của công ty / lợi ích cổ đông sẽ được tối đa hóa. Thế nên, nhiệm vụ của tất cả các nhà quản lý tài chính là tìm ra cấu trúc vốn tối ưu điều mà sẽ dẫn đến WACC thấp nhất.
TỈ LỆ PHA TRỘN NÀO GIỮA VỐN CHỦ SỞ HỮU VÀ NỢ SẼ DẪN ĐẾN WACC THẤP NHẤT?Vì WACC là một số trung bình giản đơn giữa chi phí vốn cổ phần và chi phí nợ, nên câu trả lời theo bản năng là nghĩ xem một trong hai thành phần nào thấp hơn, và sau đó có nhiều hơn một chi phí rẻ và ít hơn một chi phí đắt, để giảm trung bình của cả hai.
Vâng, câu trả lời là chi phí nợ rẻ hơn chi phí vốn chủ sở hữu. Vì nợ ít rủi ro hơn vốn chủ sở hữu, nên thu nhậpi yêu cầu để bù đắp cho các nhà đầu tư nợ thấp hơn cho các nhà đầu tư vốn. Nợ ít rủi ro hơn vốn chủ sở hữu, vì về bản chất tiền trả lãi thường là một khoản cố định và bắt buộc, và nó được ưu tiên thanh toán cổ tức, điều này về bản chất là tùy theo ý của doanh nghiệp . Một lý do khác khiến nợ ít rủi ro hơn vốn chủ sở hữu là trong trường hợp doanh nghiệp phá sản, chủ nợ sẽ nhận được tiền trả nợ trước các cổ đông vì họ ở vị trí cao hơn trong hệ thống phân cấp chủ nợ (thứ tự các chủ nợ được trả nợ), vì các cổ đông sẽ được thanh toán sau cùng .
Trên phương diện của công ty mà nói đi vay cũng sẽ rẻ hơn huy động thêm vốn chủ sở hữu là bởi cách xử lý thuế thu nhập doanh nghiệp của lãi suất và cổ tức là khác nhau.
Trong tài khoản lãi và lỗ, tiền lãi được trừ trước khi tính thuế; do đó, các công ty giảm thuế dựa trên phần lãi suất đó. Tuy nhiên, cổ tức lại được trừ sau khi tính thuế; vậy nên, các công ty không được giảm thuế đối với cổ tức. Do đó, nếu tiền lãi phải trả là 10 triệu đô la và thuế suất là 30%, chi phí cho công ty chỉ còn là 7 triệu đô la. Tiền lãi được khấu trừ thuế là một lợi thế vô cùng lớn đối với doanh nghiệp.
Chúng ta hãy quay trở lại câu hỏi về sự pha trộn giữa vốn chủ sở hữu và nợ sẽ dẫn đến WACC thấp nhất. Phản ứng theo bản năng và rõ ràng là chuẩn bị bằng cách thay thế một số vốn chủ sở hữu đắt hơn bằng khoản nợ rẻ hơn để giảm mức trung bình, WACC. Tuy nhiên, phát hành thêm nợ (tức là tăng đòn bẩy vốn), có nghĩa là nhiều tiền lãi được trả ngoài lợi nhuận trước khi cổ tức được trả cho các cổ đông. Khoản tiền trả lãi tăng làm tăng tính biến động của khoản cổ tức thanh toán cho các cổ đông, bởi vì nếu công ty rơi vào một năm yếu kém, các khoản tiền lãi tăng vẫn phải được trả, điều này có thể ảnh hưởng đến khả năng chi trả cổ tức của công ty . Sự gia tăng tính biến động của việc trả cổ tức cho các cổ đông cũng được gọi là sự gia tăng rủi ro tài chính cho các cổ đông. Nếu rủi ro tài chính đối với các cổ đông tăng lên, họ sẽ đòi hỏi lợi nhuận cao hơn để bù đắp cho họ đối với rủi ro gia tăng này, do đó chi phí vốn cổ phần sẽ tăng và điều này sẽ dẫn đến sự gia tăng của WACC.
Tóm lại, khi cố gắng tìm chi phí vốn bình quân gia quyền (WACC) thấp nhất, bạn nên:
phát hành thêm nợ để thay thế vốn chủ sở hữu đắt đỏ; điều này làm giảm WACC, nhưng
nợ nhiều hơn cũng làm tăng WACC như:
– Đòn bẩy vốn
– Rủi ro tài chính
– Vốn chủ sở hữu beta
– Chi phí vốn chủ sở hữu.
Hãy nhớ rằng Keg là một chức năng của vốn chủ sở hữu beta bao gồm cả rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính, vì vậy khi rủi ro tài chính tăng, vốn chủ sở hữu beta tăng, Keg tăng và WACC tăng.
CÁC LÝ THUYẾT VỀ CẤU TRÚC VỐN
M + M (Không có thuế): Nợ rẻ hơn = Sự gia tăng trong rủi ro tài chính / Keg
Lý thuyết truyền thống: WACC có hình chữ U, tức là có tỷ số truyền tối ưu
Lý thuyết trật tự phân hạng: Không có quy trình lý thuyết hóa; chỉ đơn giản là dòng kháng cự ít nhất trước tiên được tạo ra trong nội bộ, sau đó là nợ và cuối cùng là phát hành mới vốn chủ sở hữu.
MÔ HÌNH KHÔNG THUẾ CỦA MODIGLIANI VÀ MILLERNăm 1958, Modigliani và Miller tuyên bố rằng, giả sử một thị trường vốn hoàn hảo và bỏ qua thuế, WACC không đổi ở tất cả các cấp độ. Khi một công ty phát triển, WACC giảm do có một khoản nợ rẻ hơn được bù đắp chính xác bằng sự gia tăng của WACC gây ra bởi sự gia tăng chi phí vốn chủ sở hữu do rủi ro tài chính.
WACC không đổi ở tất cả các cấp đòn bẩy vốn, do đó giá trị thị trường của công ty cũng không đổi. Vậy nên, một công ty không thể giảm WACC bằng cách thay đổi đòn bẩy vốn của mình (Hình 1).
Chi phí vốn cổ phần được liên kết trực tiếp với đòn bẩy vốn. Khi đòn bẩy vốn tăng, rủi ro tài chính cho các cổ đông tăng lên, do đó Keg tăng lên.
Tóm tắt: Lợi ích của nợ rẻ hơn = Tăng Keg do rủi ro tài chính tăng. Chi phí vốn bình quân gia quyền (WACC), tổng giá trị của công ty và lợi ích của cổ đông là không đổi và không bị ảnh hưởng bởi các cấp độ của đòn bẩy vốn. Không có cấu trúc vốn tối ưu tồn tại.
MÔ HÌNH CÓ THUẾ CỦA MODIGLIANI VÀ MILLERNăm 1963, khi Modigliani và Miller thừa nhận thuế doanh nghiệp vào phân tích của họ, kết luận của họ đã thay đổi đáng kể. Khi nợ thậm chí còn trở nên rẻ hơn (do giảm thuế đối với các khoản thanh toán lãi), chi phí nợ giảm đáng kể từ Kd đến Kd (1-t). Do đó, mức giảm của WACC (do nợ rẻ hơn) hiện lớn hơn mức tăng của WACC (do sự gia tăng rủi ro tài chính / Keg). Vậy nên, WACC giảm khi đòn bẩy vốn tăng. Do đó, nếu một công ty muốn giảm WACC, công ty nên vay càng nhiều càng tốt.
Do đó, các công ty nên vay càng nhiều càng tốt. Cơ cấu vốn tối ưu là 99,99% nợ tài chính.
SỰ KHÔNG HOÀN HẢO CỦA THỊ TRƯỜNGRõ ràng có một vấn đề với mô hình thuế của Modigliani và Miller, bởi vì cấu trúc vốn của công ty không hoàn toàn được tạo ra từ nợ. Các công ty không được khuyến khích làm theo phương pháp được đề xuất này vì sự tồn tại của các yếu tố như chi phí phá sản, chi phí đại lý và sự tận thu thuế. Tất cả các yếu tố mà Modigliani và Miller không tính đến.
CHI PHÍ PHÁ SẢNModigliani và Miller giả định thị trường vốn hoàn hảo; do đó, một công ty luôn có thể gây quỹ và tránh phá sản. Trong thế giới thực, một bất lợi lớn của một công ty có mức nợ cao là có khả năng vỡ nợ trên các khoản thanh toán lãi tăng lên và do đó bị tuyên bố phá sản. Nếu các cổ đông và chủ nợ trở nên lo ngại về khả năng rủi ro phá sản, họ sẽ cần được bồi thường cho rủi ro bổ sung này. Do đó, chi phí vốn cổ phần và chi phí nợ sẽ tăng, WACC sẽ tăng và giá cổ phiếu giảm. Lưu ý rằng các cổ đông chịu rủi ro phá sản ở mức độ cao hơn khi họ đứng cuối cùng trong hệ thống phân cấp của các chủ nợ về thanh lý.
Nếu mô hình thuế này được sửa đổi để tính đến sự tồn tại của rủi ro phá sản ở mức độ cao của đòn bẩy vốn, thì một cấu trúc vốn tối ưu sẽ thấp hơn đáng kể so với mức nợ 99,99% được đề xuất trước đây.
CHI PHÍ ĐẠI LÝChi phí đại lý phát sinh từ vấn đề được gọi là vấn đề ‘người ủy thác và người nhậm thác”. Trong hầu hết các công ty lớn, các nhà cung cấp tài chính (người ủy thác) không thể chủ động quản lý công ty. Họ sử dụng “đại lý” (nhà quản lý) và các đại lý này có thể hành động theo cách không phải lúc nào cũng có lợi nhất cho vốn chủ sở hữu hoặc chủ nợ.
Vì chúng ta hiện đang quan tâm đến vấn đề nợ nên chúng ta sẽ cho rằng không có xung đột lợi ích giữa các cổ đông và ban quản lý và mục tiêu chính của ban quản lý là tối đa hóa lợi ích của cổ đông. Do đó, ban quản lý có thể đưa ra các quyết định có lợi cho các cổ đông bằng chi phí của các chủ nợ.
Ban quản lý có thể huy động tiền từ các chủ nợ nói rằng các khoản tiền sẽ được đầu tư vào một dự án rủi ro thấp, nhưng một khi họ nhận được tiền, họ quyết định đầu tư vào một dự án có rủi ro cao / lợi nhuận cao. Hành động này có khả năng mang lại lợi ích cho các cổ đông vì họ có thể hưởng lợi từ lợi nhuận cao hơn, nhưng chủ nợ sẽ không nhận được một phần lợi nhuận cao hơn vì lợi nhuận của họ không phụ thuộc vào hiệu suất của công ty. Do đó, các chủ nợ không nhận được tiền lãi bù đắp mức độ rủi ro cho họ.
Để bảo vệ các khoản đầu tư của mình, các chủ nợ thường áp dụng các giao ước hạn chế trong các thỏa thuận cho vay nhằm hạn chế quyền tự do hành động. Các giao ước hạn chế này có thể giới hạn số nợ có thể tăng thêm, đặt tỷ suất đòn bẩy mục tiêu, đặt hệ số khả năng thanh toán nợ hiện tại mục tiêu, hạn chế thanh toán cổ tức quá mức, hạn chế thanh lý tài sản lớn hoặc hạn chế loại hoạt động mà công ty có thể tham gia.
Vì đòn bẩy vốn tăng, các chủ nợ sẽ muốn áp đặt nhiều ràng buộc hơn đối với ban quản lý để bảo vệ khoản đầu tư tăng thêm của họ. Các giao ước mở rộng làm giảm sự tự do hoạt động, linh hoạt đầu tư của công ty (các dự án có giá trị hiện tại ròng tích cực có thể phải bị bỏ qua) và có thể dẫn đến giảm giá cổ phiếu. Quản lý không thích những hạn chế được đặt lên quyền tự do hành động của họ. Vì vậy, họ thường giới hạn mức độ của đòn bẩy vốn để giới hạn mức độ hạn chế áp đặt họ.
SỰ TẬN THU THUẾThực tế là tiền lãi được khấu trừ thuế có nghĩa là khi một công ty phát triển, nó thường làm giảm hóa đơn thuế. Việc giảm thuế đối với tiền lãi được gọi là lá chắn thuế – bởi vì khi một công ty phát triển, trả lãi nhiều hơn, nó sẽ bảo vệ nhiều hơn lợi nhuận từ thuế doanh nghiệp. Lợi thế về thuế được hưởng từ nợ trên vốn chủ sở hữu có nghĩa là một công ty có thể giảm WACC và tăng giá trị của nó bằng cách thay thế nợ cho vốn chủ sở hữu, với điều kiện là các khoản thanh toán lãi vẫn được khấu trừ thuế.
Tuy nhiên, khi một công ty phát triển, các khoản thanh toán lãi tăng lên và đạt đến điểm bằng với lợi nhuận mà họ sẽ được khấu trừ; do đó, bất kỳ khoản thanh toán lãi bổ sung nào ngoài thời điểm này sẽ không nhận được bất kỳ khoản giảm thuế nào.
Đây là điểm mà các công ty trở nên cạn kiệt thuế, tức là các khoản thanh toán lãi không còn được khấu trừ thuế, vì các khoản thanh toán lãi bổ sung vượt quá lợi nhuận và chi phí nợ tăng đáng kể từ Kd (1-t) đến Kd. Một khi đạt đến điểm này, nợ sẽ mất lợi thế về thuế và một công ty có thể hạn chế mức độ của nó.
WACC ban đầu sẽ giảm, vì lợi ích của việc có một khoản nợ rẻ hơn lớn hơn nhiều so với sự gia tăng chi phí vốn chủ sở hữu do rủi ro tài chính gia tăng. WACC sẽ tiếp tục giảm cho đến khi đạt được giá trị tối thiểu, tức là cấu trúc vốn tối ưu được đại diện bởi điểm X.
Nếu công ty tiếp tục tăng tốc, WACC sẽ tăng khi rủi ro tài chính tăng / Keg vượt xa lợi ích của khoản nợ rẻ hơn. Ở mức độ rất cao, rủi ro phá sản khiến chi phí của đường cong vốn chủ sở hữu tăng với tốc độ cao hơn và cũng khiến chi phí nợ bắt đầu tăng.
Lợi ích của cổ đông bị ảnh hưởng bởi việc thay đổi mức độ của đòn bẩy vốn. Có một mức đòn bẩy vốn tối ưu mà tại đó WACC được tối thiểu hóa và tổng giá trị của công ty được tối đa hóa. Các nhà quản lý tài chính có nhiệm vụ phải đạt được và duy trì mức độ này. Mặc dù chúng tôi chấp nhận rằng WACC có thể có hình chữ U cho các công ty nói chung, chúng tôi không thể tính toán chính xác mức độ đòn bẩy vốn tốt nhất (nghĩa là không có cơ chế phân tích để tìm cấu trúc vốn tối ưu). Mức tối ưu sẽ khác nhau từ công ty này sang công ty khác và chỉ có thể được tìm thấy bằng thử nghiệm và lỗi.
LÝ THUYẾT TRẬT TỰ PHÂN HẠNGLý thuyết trật tự phân hạng trái ngược hoàn toàn với các lý thuyết cố gắng tìm kiếm một cấu trúc vốn tối ưu bằng cách nghiên cứu sự đánh đổi giữa những lợi thế và bất lợi của nợ tài chính. Trong phương pháp này, ta không tìm kiếm một cấu trúc vốn tối ưu. Các công ty chỉ cần tuân theo một trật tự được thiết lập cho phép họ tăng tài chính theo cách đơn giản và hiệu quả nhất, thứ tự như sau:
Sử dụng tất cả các khoản lợi nhuận giữ lại có sẵn;
Sau đó phát hành nợ;
Sau đó cuối cùng mới phát hành vốn chủ sở hữu.
Những cân chỉnh làm cơ sở cho trật tự phân hạng gấp ba lần:
Các công ty sẽ muốn giảm thiểu chi phí phát hành.
Sự tồn tại của thông tin bất cân xứng và chuyển giao thông tin giả định xuất phát từ các hành động quản lý. Bây giờ chúng ta sẽ xem xét từng sự cân chỉnh này một cách chi tiết hơn.
Giảm thiểu chi phí phát hành
Lợi nhuận giữ lại không có chi phí phát hành vì công ty đã có sẵn vốn
Nợ phát hành sẽ chỉ phát sinh chi phí phát hành vừa phải
Phát hành vốn chủ sở hữu sẽ phải chịu mức chi phí phát hành cao
Vì công ty đã có lợi nhuận giữ lại, nên không phải mất thời gian để thuyết phục các nhà đầu tư bên ngoài
SỰ TỒN TẠI CỦA THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNGĐây là một thuật ngữ thú vị cho chúng ta biết rằng các nhà quản lý biết nhiều hơn về triển vọng của công ty họ so với các nhà đầu tư bên ngoài / thị trường. Các nhà quản lý biết tất cả các thông tin chi tiết bên trong, trong khi thị trường chỉ có quyền truy cập vào thông tin có sẵn trong quá khứ và công khai. Sự mất cân bằng về thông tin (thông tin bất cân xứng) này có nghĩa là hành động của các nhà quản lý được thị trường xem xét kỹ lưỡng. Hành động của họ thường được hiểu là quan điểm của người trong cuộc về triển vọng tương lai của công ty. Một ví dụ điển hình cho điều này là khi các nhà quản lý bất ngờ tăng cổ tức, vì các nhà đầu tư giải thích đây là dấu hiệu của sự gia tăng niềm tin quản lý đối với triển vọng tương lai của công ty do đó giá cổ phiếu thường tăng.
Khi các nhà quản lý có thông tin nội bộ thuận lợi, họ không muốn phát hành cổ phiếu vì họ bị định giá thấp. Do đó, sẽ thật hợp lý khi các nhà đầu tư bên ngoài cho rằng các nhà quản lý có thông tin bên trong
không thuận lợi sẽ muốn phát hành cổ phiếu khi họ được định giá quá cao. Vậy nên, việc một công ty phát hành cổ phiếu được hiểu là một dấu hiệu ban quản lý tin rằng cổ phiếu được định giá quá cao. Do đó, các nhà đầu tư có thể bắt đầu bán cổ phiếu của công ty, khiến giá cổ phiếu giảm. Vì vậy, phát hành vốn chủ sở hữu là giải pháp cuối cùng, tóm lại trật tự phân hạng là giữ lại thu nhập, sau đó là nợ, và phát hành vốn cổ phần là kế sách sau cùng.
Một hàm ý khác là các công ty nên giữ tiền mặt vì lý do đầu cơ, họ nên xây dựng dự trữ tiền mặt, để đến một lúc nào đó trong tương lai công ty không có đủ lợi nhuận giữ lại để đầu tư vào tất cả các dự án có giá trị hiện tại ròng tích cực, thì họ sẽ sử dụng các khoản dự trữ tiền mặt này và do đó không cần huy động tài chính từ bên ngoài nữa.
LỜI KẾTVì mục tiêu tài chính cốt yếu là tối đa hóa lợi ích của cổ đông, nên các công ty nên tìm cách giảm thiểu chi phí vốn bình quân gia quyền (WACC). Về mặt thực tế, điều này có thể đạt được bằng cách có một số nợ trong cơ cấu vốn, vì nợ tương đối rẻ hơn so với vốn chủ sở hữu, trong khi tránh các thái cực của của đòn bẩy vốn quá nhỏ (WACC có thể giảm hơn nữa) hoặc quá lớn (công ty bị phá sản chi phí, chi phí đại lý và tận thu thuế). Các công ty nên theo đuổi mức đòn bẩy vốn hợp lý.
Các công ty nên nhận thức về lý thuyết trật tự phân hạng theo cách tiếp cận hoàn toàn khác và bỏ qua việc tìm kiếm một cấu trúc vốn tối ưu. Điều đó có nghĩa rằng khi một công ty muốn huy động vốn, họ sẽ làm theo thứ tự sau: đầu tiên là giữ lại thu nhập, sau đó là nợ và cuối cùng là vốn chủ sở hữu như là kế sách sau cùng.
Theo Saga
Quyết định tài chính có ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí vốn bình quân gia quyền (WACC). WACC là trung bình trọng số đơn giản của chi phí vốn cổ phần và chi phí nợ. Trọng số tỷ lệ thuận với giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu và nợ; do đó, tỷ lệ vốn chủ sở hữu và nợ biến động, thì WACC cũng vậy. Thế nên điểm quan trọng đầu tiên cần hiểu là, khi một công ty thay đổi cấu trúc vốn (nghĩa là thay đổi hỗn hợp vốn chủ sở hữu và nợ tài chính), nó sẽ tự động dẫn đến thay đổi WACC.
Giá trị thị trường của một công ty = Dòng tiền trong tương lai / WACC
Cần phải lưu ý rằng WACC càng thấp, giá trị thị trường của công ty càng cao – như bạn có thể thấy từ ví dụ đơn giản sau đây; khi WACC là 15%, giá trị thị trường của công ty là 667; và khi WACC giảm xuống còn10%, giá trị thị trường của công ty tăng tới 1.000.
Giá trị thị trường của một công ty
100 / 0,15 = 667
100 / 0,10 = 1.000
Do đó, nếu chúng ta có thể thay đổi cấu trúc vốn để hạ mức WACC xuống, thì chúng ta có thể tăng giá trị thị trường của công ty và từ đó làm tăng được lợi ích cổ đông.
Vì vậy, việc tìm cấu trúc vốn tối ưu trở thành việc tìm WACC thấp nhất, bởi vì khi WACC được tối thiểu hóa thì giá trị của công ty / lợi ích cổ đông sẽ được tối đa hóa. Thế nên, nhiệm vụ của tất cả các nhà quản lý tài chính là tìm ra cấu trúc vốn tối ưu điều mà sẽ dẫn đến WACC thấp nhất.
TỈ LỆ PHA TRỘN NÀO GIỮA VỐN CHỦ SỞ HỮU VÀ NỢ SẼ DẪN ĐẾN WACC THẤP NHẤT?Vì WACC là một số trung bình giản đơn giữa chi phí vốn cổ phần và chi phí nợ, nên câu trả lời theo bản năng là nghĩ xem một trong hai thành phần nào thấp hơn, và sau đó có nhiều hơn một chi phí rẻ và ít hơn một chi phí đắt, để giảm trung bình của cả hai.
Vâng, câu trả lời là chi phí nợ rẻ hơn chi phí vốn chủ sở hữu. Vì nợ ít rủi ro hơn vốn chủ sở hữu, nên thu nhậpi yêu cầu để bù đắp cho các nhà đầu tư nợ thấp hơn cho các nhà đầu tư vốn. Nợ ít rủi ro hơn vốn chủ sở hữu, vì về bản chất tiền trả lãi thường là một khoản cố định và bắt buộc, và nó được ưu tiên thanh toán cổ tức, điều này về bản chất là tùy theo ý của doanh nghiệp . Một lý do khác khiến nợ ít rủi ro hơn vốn chủ sở hữu là trong trường hợp doanh nghiệp phá sản, chủ nợ sẽ nhận được tiền trả nợ trước các cổ đông vì họ ở vị trí cao hơn trong hệ thống phân cấp chủ nợ (thứ tự các chủ nợ được trả nợ), vì các cổ đông sẽ được thanh toán sau cùng .
Trên phương diện của công ty mà nói đi vay cũng sẽ rẻ hơn huy động thêm vốn chủ sở hữu là bởi cách xử lý thuế thu nhập doanh nghiệp của lãi suất và cổ tức là khác nhau.
Trong tài khoản lãi và lỗ, tiền lãi được trừ trước khi tính thuế; do đó, các công ty giảm thuế dựa trên phần lãi suất đó. Tuy nhiên, cổ tức lại được trừ sau khi tính thuế; vậy nên, các công ty không được giảm thuế đối với cổ tức. Do đó, nếu tiền lãi phải trả là 10 triệu đô la và thuế suất là 30%, chi phí cho công ty chỉ còn là 7 triệu đô la. Tiền lãi được khấu trừ thuế là một lợi thế vô cùng lớn đối với doanh nghiệp.
Chúng ta hãy quay trở lại câu hỏi về sự pha trộn giữa vốn chủ sở hữu và nợ sẽ dẫn đến WACC thấp nhất. Phản ứng theo bản năng và rõ ràng là chuẩn bị bằng cách thay thế một số vốn chủ sở hữu đắt hơn bằng khoản nợ rẻ hơn để giảm mức trung bình, WACC. Tuy nhiên, phát hành thêm nợ (tức là tăng đòn bẩy vốn), có nghĩa là nhiều tiền lãi được trả ngoài lợi nhuận trước khi cổ tức được trả cho các cổ đông. Khoản tiền trả lãi tăng làm tăng tính biến động của khoản cổ tức thanh toán cho các cổ đông, bởi vì nếu công ty rơi vào một năm yếu kém, các khoản tiền lãi tăng vẫn phải được trả, điều này có thể ảnh hưởng đến khả năng chi trả cổ tức của công ty . Sự gia tăng tính biến động của việc trả cổ tức cho các cổ đông cũng được gọi là sự gia tăng rủi ro tài chính cho các cổ đông. Nếu rủi ro tài chính đối với các cổ đông tăng lên, họ sẽ đòi hỏi lợi nhuận cao hơn để bù đắp cho họ đối với rủi ro gia tăng này, do đó chi phí vốn cổ phần sẽ tăng và điều này sẽ dẫn đến sự gia tăng của WACC.
Tóm lại, khi cố gắng tìm chi phí vốn bình quân gia quyền (WACC) thấp nhất, bạn nên:
phát hành thêm nợ để thay thế vốn chủ sở hữu đắt đỏ; điều này làm giảm WACC, nhưng
nợ nhiều hơn cũng làm tăng WACC như:
– Đòn bẩy vốn
– Rủi ro tài chính
– Vốn chủ sở hữu beta
– Chi phí vốn chủ sở hữu.
Hãy nhớ rằng Keg là một chức năng của vốn chủ sở hữu beta bao gồm cả rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính, vì vậy khi rủi ro tài chính tăng, vốn chủ sở hữu beta tăng, Keg tăng và WACC tăng.
CÁC LÝ THUYẾT VỀ CẤU TRÚC VỐN
M + M (Không có thuế): Nợ rẻ hơn = Sự gia tăng trong rủi ro tài chính / Keg
Lý thuyết truyền thống: WACC có hình chữ U, tức là có tỷ số truyền tối ưu
Lý thuyết trật tự phân hạng: Không có quy trình lý thuyết hóa; chỉ đơn giản là dòng kháng cự ít nhất trước tiên được tạo ra trong nội bộ, sau đó là nợ và cuối cùng là phát hành mới vốn chủ sở hữu.
MÔ HÌNH KHÔNG THUẾ CỦA MODIGLIANI VÀ MILLERNăm 1958, Modigliani và Miller tuyên bố rằng, giả sử một thị trường vốn hoàn hảo và bỏ qua thuế, WACC không đổi ở tất cả các cấp độ. Khi một công ty phát triển, WACC giảm do có một khoản nợ rẻ hơn được bù đắp chính xác bằng sự gia tăng của WACC gây ra bởi sự gia tăng chi phí vốn chủ sở hữu do rủi ro tài chính.
WACC không đổi ở tất cả các cấp đòn bẩy vốn, do đó giá trị thị trường của công ty cũng không đổi. Vậy nên, một công ty không thể giảm WACC bằng cách thay đổi đòn bẩy vốn của mình (Hình 1).
Chi phí vốn cổ phần được liên kết trực tiếp với đòn bẩy vốn. Khi đòn bẩy vốn tăng, rủi ro tài chính cho các cổ đông tăng lên, do đó Keg tăng lên.
Tóm tắt: Lợi ích của nợ rẻ hơn = Tăng Keg do rủi ro tài chính tăng. Chi phí vốn bình quân gia quyền (WACC), tổng giá trị của công ty và lợi ích của cổ đông là không đổi và không bị ảnh hưởng bởi các cấp độ của đòn bẩy vốn. Không có cấu trúc vốn tối ưu tồn tại.
MÔ HÌNH CÓ THUẾ CỦA MODIGLIANI VÀ MILLERNăm 1963, khi Modigliani và Miller thừa nhận thuế doanh nghiệp vào phân tích của họ, kết luận của họ đã thay đổi đáng kể. Khi nợ thậm chí còn trở nên rẻ hơn (do giảm thuế đối với các khoản thanh toán lãi), chi phí nợ giảm đáng kể từ Kd đến Kd (1-t). Do đó, mức giảm của WACC (do nợ rẻ hơn) hiện lớn hơn mức tăng của WACC (do sự gia tăng rủi ro tài chính / Keg). Vậy nên, WACC giảm khi đòn bẩy vốn tăng. Do đó, nếu một công ty muốn giảm WACC, công ty nên vay càng nhiều càng tốt.
Do đó, các công ty nên vay càng nhiều càng tốt. Cơ cấu vốn tối ưu là 99,99% nợ tài chính.
SỰ KHÔNG HOÀN HẢO CỦA THỊ TRƯỜNGRõ ràng có một vấn đề với mô hình thuế của Modigliani và Miller, bởi vì cấu trúc vốn của công ty không hoàn toàn được tạo ra từ nợ. Các công ty không được khuyến khích làm theo phương pháp được đề xuất này vì sự tồn tại của các yếu tố như chi phí phá sản, chi phí đại lý và sự tận thu thuế. Tất cả các yếu tố mà Modigliani và Miller không tính đến.
CHI PHÍ PHÁ SẢNModigliani và Miller giả định thị trường vốn hoàn hảo; do đó, một công ty luôn có thể gây quỹ và tránh phá sản. Trong thế giới thực, một bất lợi lớn của một công ty có mức nợ cao là có khả năng vỡ nợ trên các khoản thanh toán lãi tăng lên và do đó bị tuyên bố phá sản. Nếu các cổ đông và chủ nợ trở nên lo ngại về khả năng rủi ro phá sản, họ sẽ cần được bồi thường cho rủi ro bổ sung này. Do đó, chi phí vốn cổ phần và chi phí nợ sẽ tăng, WACC sẽ tăng và giá cổ phiếu giảm. Lưu ý rằng các cổ đông chịu rủi ro phá sản ở mức độ cao hơn khi họ đứng cuối cùng trong hệ thống phân cấp của các chủ nợ về thanh lý.
Nếu mô hình thuế này được sửa đổi để tính đến sự tồn tại của rủi ro phá sản ở mức độ cao của đòn bẩy vốn, thì một cấu trúc vốn tối ưu sẽ thấp hơn đáng kể so với mức nợ 99,99% được đề xuất trước đây.
CHI PHÍ ĐẠI LÝChi phí đại lý phát sinh từ vấn đề được gọi là vấn đề ‘người ủy thác và người nhậm thác”. Trong hầu hết các công ty lớn, các nhà cung cấp tài chính (người ủy thác) không thể chủ động quản lý công ty. Họ sử dụng “đại lý” (nhà quản lý) và các đại lý này có thể hành động theo cách không phải lúc nào cũng có lợi nhất cho vốn chủ sở hữu hoặc chủ nợ.
Vì chúng ta hiện đang quan tâm đến vấn đề nợ nên chúng ta sẽ cho rằng không có xung đột lợi ích giữa các cổ đông và ban quản lý và mục tiêu chính của ban quản lý là tối đa hóa lợi ích của cổ đông. Do đó, ban quản lý có thể đưa ra các quyết định có lợi cho các cổ đông bằng chi phí của các chủ nợ.
Ban quản lý có thể huy động tiền từ các chủ nợ nói rằng các khoản tiền sẽ được đầu tư vào một dự án rủi ro thấp, nhưng một khi họ nhận được tiền, họ quyết định đầu tư vào một dự án có rủi ro cao / lợi nhuận cao. Hành động này có khả năng mang lại lợi ích cho các cổ đông vì họ có thể hưởng lợi từ lợi nhuận cao hơn, nhưng chủ nợ sẽ không nhận được một phần lợi nhuận cao hơn vì lợi nhuận của họ không phụ thuộc vào hiệu suất của công ty. Do đó, các chủ nợ không nhận được tiền lãi bù đắp mức độ rủi ro cho họ.
Để bảo vệ các khoản đầu tư của mình, các chủ nợ thường áp dụng các giao ước hạn chế trong các thỏa thuận cho vay nhằm hạn chế quyền tự do hành động. Các giao ước hạn chế này có thể giới hạn số nợ có thể tăng thêm, đặt tỷ suất đòn bẩy mục tiêu, đặt hệ số khả năng thanh toán nợ hiện tại mục tiêu, hạn chế thanh toán cổ tức quá mức, hạn chế thanh lý tài sản lớn hoặc hạn chế loại hoạt động mà công ty có thể tham gia.
Vì đòn bẩy vốn tăng, các chủ nợ sẽ muốn áp đặt nhiều ràng buộc hơn đối với ban quản lý để bảo vệ khoản đầu tư tăng thêm của họ. Các giao ước mở rộng làm giảm sự tự do hoạt động, linh hoạt đầu tư của công ty (các dự án có giá trị hiện tại ròng tích cực có thể phải bị bỏ qua) và có thể dẫn đến giảm giá cổ phiếu. Quản lý không thích những hạn chế được đặt lên quyền tự do hành động của họ. Vì vậy, họ thường giới hạn mức độ của đòn bẩy vốn để giới hạn mức độ hạn chế áp đặt họ.
SỰ TẬN THU THUẾThực tế là tiền lãi được khấu trừ thuế có nghĩa là khi một công ty phát triển, nó thường làm giảm hóa đơn thuế. Việc giảm thuế đối với tiền lãi được gọi là lá chắn thuế – bởi vì khi một công ty phát triển, trả lãi nhiều hơn, nó sẽ bảo vệ nhiều hơn lợi nhuận từ thuế doanh nghiệp. Lợi thế về thuế được hưởng từ nợ trên vốn chủ sở hữu có nghĩa là một công ty có thể giảm WACC và tăng giá trị của nó bằng cách thay thế nợ cho vốn chủ sở hữu, với điều kiện là các khoản thanh toán lãi vẫn được khấu trừ thuế.
Tuy nhiên, khi một công ty phát triển, các khoản thanh toán lãi tăng lên và đạt đến điểm bằng với lợi nhuận mà họ sẽ được khấu trừ; do đó, bất kỳ khoản thanh toán lãi bổ sung nào ngoài thời điểm này sẽ không nhận được bất kỳ khoản giảm thuế nào.
Đây là điểm mà các công ty trở nên cạn kiệt thuế, tức là các khoản thanh toán lãi không còn được khấu trừ thuế, vì các khoản thanh toán lãi bổ sung vượt quá lợi nhuận và chi phí nợ tăng đáng kể từ Kd (1-t) đến Kd. Một khi đạt đến điểm này, nợ sẽ mất lợi thế về thuế và một công ty có thể hạn chế mức độ của nó.
WACC ban đầu sẽ giảm, vì lợi ích của việc có một khoản nợ rẻ hơn lớn hơn nhiều so với sự gia tăng chi phí vốn chủ sở hữu do rủi ro tài chính gia tăng. WACC sẽ tiếp tục giảm cho đến khi đạt được giá trị tối thiểu, tức là cấu trúc vốn tối ưu được đại diện bởi điểm X.
Nếu công ty tiếp tục tăng tốc, WACC sẽ tăng khi rủi ro tài chính tăng / Keg vượt xa lợi ích của khoản nợ rẻ hơn. Ở mức độ rất cao, rủi ro phá sản khiến chi phí của đường cong vốn chủ sở hữu tăng với tốc độ cao hơn và cũng khiến chi phí nợ bắt đầu tăng.
Lợi ích của cổ đông bị ảnh hưởng bởi việc thay đổi mức độ của đòn bẩy vốn. Có một mức đòn bẩy vốn tối ưu mà tại đó WACC được tối thiểu hóa và tổng giá trị của công ty được tối đa hóa. Các nhà quản lý tài chính có nhiệm vụ phải đạt được và duy trì mức độ này. Mặc dù chúng tôi chấp nhận rằng WACC có thể có hình chữ U cho các công ty nói chung, chúng tôi không thể tính toán chính xác mức độ đòn bẩy vốn tốt nhất (nghĩa là không có cơ chế phân tích để tìm cấu trúc vốn tối ưu). Mức tối ưu sẽ khác nhau từ công ty này sang công ty khác và chỉ có thể được tìm thấy bằng thử nghiệm và lỗi.
LÝ THUYẾT TRẬT TỰ PHÂN HẠNGLý thuyết trật tự phân hạng trái ngược hoàn toàn với các lý thuyết cố gắng tìm kiếm một cấu trúc vốn tối ưu bằng cách nghiên cứu sự đánh đổi giữa những lợi thế và bất lợi của nợ tài chính. Trong phương pháp này, ta không tìm kiếm một cấu trúc vốn tối ưu. Các công ty chỉ cần tuân theo một trật tự được thiết lập cho phép họ tăng tài chính theo cách đơn giản và hiệu quả nhất, thứ tự như sau:
Sử dụng tất cả các khoản lợi nhuận giữ lại có sẵn;
Sau đó phát hành nợ;
Sau đó cuối cùng mới phát hành vốn chủ sở hữu.
Những cân chỉnh làm cơ sở cho trật tự phân hạng gấp ba lần:
Các công ty sẽ muốn giảm thiểu chi phí phát hành.
Sự tồn tại của thông tin bất cân xứng và chuyển giao thông tin giả định xuất phát từ các hành động quản lý. Bây giờ chúng ta sẽ xem xét từng sự cân chỉnh này một cách chi tiết hơn.
Giảm thiểu chi phí phát hành
Lợi nhuận giữ lại không có chi phí phát hành vì công ty đã có sẵn vốn
Nợ phát hành sẽ chỉ phát sinh chi phí phát hành vừa phải
Phát hành vốn chủ sở hữu sẽ phải chịu mức chi phí phát hành cao
Vì công ty đã có lợi nhuận giữ lại, nên không phải mất thời gian để thuyết phục các nhà đầu tư bên ngoài
SỰ TỒN TẠI CỦA THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNGĐây là một thuật ngữ thú vị cho chúng ta biết rằng các nhà quản lý biết nhiều hơn về triển vọng của công ty họ so với các nhà đầu tư bên ngoài / thị trường. Các nhà quản lý biết tất cả các thông tin chi tiết bên trong, trong khi thị trường chỉ có quyền truy cập vào thông tin có sẵn trong quá khứ và công khai. Sự mất cân bằng về thông tin (thông tin bất cân xứng) này có nghĩa là hành động của các nhà quản lý được thị trường xem xét kỹ lưỡng. Hành động của họ thường được hiểu là quan điểm của người trong cuộc về triển vọng tương lai của công ty. Một ví dụ điển hình cho điều này là khi các nhà quản lý bất ngờ tăng cổ tức, vì các nhà đầu tư giải thích đây là dấu hiệu của sự gia tăng niềm tin quản lý đối với triển vọng tương lai của công ty do đó giá cổ phiếu thường tăng.
Khi các nhà quản lý có thông tin nội bộ thuận lợi, họ không muốn phát hành cổ phiếu vì họ bị định giá thấp. Do đó, sẽ thật hợp lý khi các nhà đầu tư bên ngoài cho rằng các nhà quản lý có thông tin bên trong
không thuận lợi sẽ muốn phát hành cổ phiếu khi họ được định giá quá cao. Vậy nên, việc một công ty phát hành cổ phiếu được hiểu là một dấu hiệu ban quản lý tin rằng cổ phiếu được định giá quá cao. Do đó, các nhà đầu tư có thể bắt đầu bán cổ phiếu của công ty, khiến giá cổ phiếu giảm. Vì vậy, phát hành vốn chủ sở hữu là giải pháp cuối cùng, tóm lại trật tự phân hạng là giữ lại thu nhập, sau đó là nợ, và phát hành vốn cổ phần là kế sách sau cùng.
Một hàm ý khác là các công ty nên giữ tiền mặt vì lý do đầu cơ, họ nên xây dựng dự trữ tiền mặt, để đến một lúc nào đó trong tương lai công ty không có đủ lợi nhuận giữ lại để đầu tư vào tất cả các dự án có giá trị hiện tại ròng tích cực, thì họ sẽ sử dụng các khoản dự trữ tiền mặt này và do đó không cần huy động tài chính từ bên ngoài nữa.
LỜI KẾTVì mục tiêu tài chính cốt yếu là tối đa hóa lợi ích của cổ đông, nên các công ty nên tìm cách giảm thiểu chi phí vốn bình quân gia quyền (WACC). Về mặt thực tế, điều này có thể đạt được bằng cách có một số nợ trong cơ cấu vốn, vì nợ tương đối rẻ hơn so với vốn chủ sở hữu, trong khi tránh các thái cực của của đòn bẩy vốn quá nhỏ (WACC có thể giảm hơn nữa) hoặc quá lớn (công ty bị phá sản chi phí, chi phí đại lý và tận thu thuế). Các công ty nên theo đuổi mức đòn bẩy vốn hợp lý.
Các công ty nên nhận thức về lý thuyết trật tự phân hạng theo cách tiếp cận hoàn toàn khác và bỏ qua việc tìm kiếm một cấu trúc vốn tối ưu. Điều đó có nghĩa rằng khi một công ty muốn huy động vốn, họ sẽ làm theo thứ tự sau: đầu tiên là giữ lại thu nhập, sau đó là nợ và cuối cùng là vốn chủ sở hữu như là kế sách sau cùng.
Theo Saga
Lời Giải Về Cấu Trúc Vốn Tối Ưu Cho Doanh Nghiệp
Bất cứ doanh nghiệp nào khi vận hành cũng đều có một cấu trúc vốn nhất định dù họ có ý thức xây dựng nó hay không. Có thể là 100 vốn cổ phần hoặc 40 nợ vay và 60 vốn cổ phần. Vậy có gì khác nhau giữa hai cấu trúc vốn này? Sẽ là không có gì đáng bàn cãi nếu giá trị mang lại cho cổ đông của hai cấu trúc vốn khác nhau này là như nhau.
Cấu trúc vốn và thành phầnỞ đây cần làm rõ về khái niệm các thành phần trong cấu trúc vốn. Vốn cổ phần, bao gồm vốn cổ phần thường, cổ phần ưu đãi và lợi nhuận giữ lại, được tìm thấy dễ dàng ở khoản mục vốn chủ sở hữu trên bảng cân đối kế toán.
Vì sao doanh nghiệp phải quan tâm đến cấu trúc vốn?Thứ nhất, trái quyền (quyền của các trái chủ) được ưu tiên trước quyền của cổ đông nếu trường hợp doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, do vậy trái chủ được xem là có mức độ rủi ro thấp hơn các cổ đông, tương ứng với sự an toàn này, họ sẽ nhận được một tỷ suất sinh lợi (chính là lãi suất vay nợ) thấp hơn tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần của các cổ đông.
Thứ hai, chi phí lãi vay được khấu trừ trước thuế làm giảm mức thuế thu nhập mà doanh nghiệp phải nộp xuống, mang đến cho doanh nghiệp lợi ích tấm chắn thuế.
Cấu trúc vốn tối ưu cho doanh nghiệpThứ nhất, cấu trúc vốn tối ưu khác nhau với từng ngành. Chính đặc điểm ngành mà doanh nghiệp hoạt động sẽ góp phần quyết định cấu trúc vốn cho doanh nghiệp. Bởi vì có một số ngành đòi hỏi sử dụng tài sản cố định hữu hình nhiều hơn các ngành khác thí dụ như viễn thông, điện tử. Tóm lại, những ngành nào có nhu cầu đầu tư vào các tài sản cố định (như máy móc thiết bị, nhà xưởng, đất đai) nhiều hơn thì khả năng có thể sử dụng nợ sẽ nhiều hơn.
Khái Niệm Cấu Trúc Vốn Và Nhân Tô Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn
1. Khái niệm về cấu trúc vốn và chi phí sử dụng vốn
Vốn là một điều kiện tiên quyết để cho một doanh nghiệp có thể ra đời và hoạt động. Mỗi một loại nguồn vốn đều có chi phí và sử dụng nhất định. Do vậy, để có thể huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của mình, doanh nghiệp phải nghiên cứu từng nguồn vốn của mình, doanh nghiệp phải nghiên cứu chi phí của từng nguồn vốn cụ thể để từ đó xác định cho mình một cơ cấu hợp lý phù hợp với từng điều kiện cụ thể, từng giai đoạn của doanh nghiệp.
1.1 Khái niệm về cấu trúc vốn.Vấn đề đặt ra ở đây là liệu một Công ty nào đó có thể tác động đến giá trị và chi phí sử dụng vốn của nó bằng cách thay đổi cấu trúc vốn hay không? Và quyết định đầu tư hay không đầu tư vào một dự án nào đó có thay đổi không và thu nhập của cổ đông thay đổi hay không? Mục tiêu của bài này là xem xét và phân tích sự ảnh hưởng của cấu trúc vốn lên giá trị doanh nghiệp và thu nhập của cổ đông.
Một Công ty có thể có một cấu trúc vốn tối ưu bằng cách sử dụng đòn bẩy tài chính phù hợp. Như vậy Công ty có thể hạ thấp chi phí sử dụng vốn thông qua việc gia tăng sử dụng nợ (vì khi sử dụng nợ Công ty sẽ được hưởng lợi ích từ tấm chắn thuế). Tuy nhiên khi tỷ lệ nợ gia tăng thì rủi ro cũng gia tăng do đó nhà đầu tư sẽ gia tăng tỷ lệ lợi nhuận đòi hỏi rE. Mặc dù sự gia tăng rE lúc đầu cũng không hoàn toàn xóa sạch lợi ích của việc sử dụng nợ như là một nguồn vốn rẻ hơn cho đến khi nào nhà đầu tư tiếp tục gia tăng lợi nhuận đòi hỏi khiến cho lợi ích của việc sử dụng nợ không còn nữa.
Chi phí sử dụng vốn cũng có thể được hiểu như là tỷ suất sinh lợi tối thiểu mà doanh nghiệp đòi hỏi khi thực hiện một dự án mới. Nếu một dự án mới tạo được tỷ suất sinh lợi nộ bộ IRR lớn hơn chi phí sử dụng vốn thì giá trị của doanh nghiệp sẽ tăng. Ngược lại, nếu một dự án đầu tư mới tạo ra IRR thấp hơn chi phí sử dụng vốn, giá trị của doanh nghiệp sẽ giảm.
1.2. Các nhân tố cấu thành cấu trúc vốn.a./ Nguồn vốn vay:
Trong nền kinh tế thị trường,hầu như không một doanh nghiệp nào hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ bằng nguồn vốn tự có mà đều phải hoạt động bằng nhiều nguồn vốn, trong đó nguồn vốn vay sử dụng đáng kể.
Vay ngắn hạn:
Thời gian đáo hạn ngắn hơn một năm
Lãi suất của nguồn vốn vay ngắn hạn thường thấp hơn tín dụng dài hạn Thuờng được bổ sung vốn lưu động
Vay dài hạn:
Thời gian đáo hạn dài hơn một năm
Lãi suất vay dài hạn thường cao hơn so với lãi suất vay ngắn hạn
Thường được dùng để bổ sung cho vốn xây dựng cơ bản hay mua sắm tài sản cố định.
Nguồn vốn vay này có thể được huy động từ các tổ chức tài chính,ngân hàng hay việc phát hành trái phiếu. Việc doanh nghiệp sử dụng loại nguồn vốn vay này nhiều hay ít thì còn tùy thuộc vào đặc điểm của loại hình doanh nghiệp và doanh nghiệp đang ở trong chu kỳ sản xuất kinh doanh
b/ Nguồn vốn chủ sở hữu
Nói đến nguồn vốn chủ sở hữu là nói đến nguồn vốn đầu tiên mà doanh nghiệp huy động được.Bởi vì,đối với một doanh nghiệp trước khi đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp phải có vốn điều lệ (vốn góp nếu doanh nghiệp cổ phần,hoặc là vốn ngân sách nhà nước cấp nếu là doanh nghiệp nhà nước)
Tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu trong tổng tài sản nợ phản ánh tình hình tự chủ về tài chính của doanh nghiệp.
Tóm lại: Khác biệt cơ bản giữa nguồn vốn vay và nguồn vốn chủ sở hữu là:
* Nguồn vốn vay:
Doanh nghiệp nhận được nguồn vốn này không phải từ chủ sở hữu
Phải trả lãi vay cho các khoản tiền vay
Mức lãi suất phải trả cho các khỏan vay theo mức ổn định,được thỏa thuận khi vay
Doanh nghiệp phải hòan trả nợ khi đáo hạn,ngọai trừ nguồn huy động từ tín dụng ưu đãi.
Doanh nghiệp có thể phải thế chấp tài sản hay nhờ bảo lãnh khi vay nợ.
Do các chủ sở hữu của doanh nghiệp đóng góp
Chỉ chia lợi tức cho chủ sở hữu nếu doanh nghiệp có lợi nhuận
Lợi tức chia cho các chủ sở hữu tùy theo quyết định của Hội Đồng Quản Trị và tùy thuộc vào mức lợi nhuận thu được của công ty.
Doanh nghiệp không phải hòan trả tiền vốn đã nhận từ chủ sở hữu,trừ khi doanh nghiệp phá sản
Doanh nghiệp không phải thế chấp khi huy động vốn
Các tỷ số đo lường cấu trúc vốn
Các tỷ số thường được để đánh giá và xem xét cấu trúc vốn của Doanh Nghiệp. Tỷ số nợ dài hạn trên vốn chủ sở hữu = Nợ dài hạn / Vốn chủ sở hữu
Nợ dài hạn: là những khỏan nợ có thời hạn thanh tóan trên một năm chẳng hạn như vay dài hạn bằng phát hành trái phiếu,tài sản thuê mua.
Vốn chủ sở hữu bao gồm: Vốn cổ phần và lợi nhuận giữ lại
Vốn cổ phần = Mệnh giá cổ phiếu x Số cổ phiếu đang lưu hành
Thu nhập giữ lại là thu nhập ròng sau khi đã chi trả cho cổ đông dưới dạng cổ tức.
Vốn cổ phần = P x N
Trong đó:
P: Giá thị trường tại thời điểm lập báo cáo
N: Số cổ phiếu đang lưu hành
Tỷ Số nợ = Nợ dài hạn/ Tổng tài sản
Tổng tài sản bao gồm: Tài sản lưu động và tài sản cố định hay là tổng giá trị tòan bộ kinh phí đầu tư cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong phần bên trái của bảng cân đối kế toán.
Tỷ số này cho thấy gánh nặng nợ của doanh nghiệp:
Chỉ số thanh toán ngắn hạn = Tổng tài sản / Tổng nợ ngắn hạn
2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu cấu trúc vốn trong quản trị tài chính:Khái niệm về cấu trúc vốn
Cấu trúc vốn là vấn đề đã được các nhà nghiên cứu kinh tế -tài chính quan tâm và để nhiều thời gian nghiên cứu.Đứng trên góc độ nhà quản lý tài chính tại doanh nghiệp việc nghiên cứu cấu trúc vốn giúp họ tìm ra lời giải cho những câu hỏi sau:
Xác định cấu trúc vốn như thế nào là hợp lý và có lợi cho doanh nghiệp?
Nên vay nợ hay là không?
Nếu vay nợ, doanh nghiệp gánh chịu rủi ro ở mức độ nào?
Nếu bạn không có nhiều kinh nghiệm trong việc viết luận văn, luận án hay khóa luận tốt nghiệp. Bạn cần đến dịch vụ làm luận văn thuê để giúp mình hoàn thành những bài luận đúng deadline? Khi gặp khó khăn về vấn đề viết luận văn, luận án hay khóa luận tốt nghiệp, hãy nhớ đến Tổng đài tư vấn luận văn 1080, nơi giúp bạn giải quyết những khó khăn mà chúng tôi đã từng trải qua.
3. Cấu trúc vốn tối ưu và các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốnCấu trúc vốn (capital structure) là quan hệ về tỷ trọng của từng loại vốn dài hạn bao gồm nợ, vốn cổ phần ưu đãi và vốn cổ phần thường trong tổng số nguồn vốn của công ty.
3.1. Khái niệm cấu trúc vốn và cấu trúc vốn tối ưu.Cấu trúc vốn (capital structure) là quan hệ về tỷ trọng của từng loại vốn dài hạn bao gồm nợ, vốn cổ phần ưu đãi và vốn cổ phần thường trong tổng số nguồn vốn của công ty.
Cấu trúc vốn tối ưu là hỗn hợp nợ dài hạn, cổ phần ưu đãi, và vốn cổ phần thường cho phép tối thiểu hóa chi phí sử dụng vốn bình quân của doanh nghiệp. Với cấu trúc vốn có chi phí sử dụng vốn bình quân được tối thiểu hóa, tổng giá trị các chứng khoán của doanh nghiệp được tối đa hóa.
Số lượng nợ trong cấu trúc vốn tối ưu của doanh nghiệp được gọi là khả năng vay nợ của doanh nghiệp. Do đó khả năng vay nợ của một doanh nghiệp được xác định bởi các yếu tố rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp, thuế suất thuế thu nhập của doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân, mức độ phá sản có thể có chi phí đại lý, vai trò của chính sách cấu trúc vốn trong việc cung cấp các tín hiệu về thành quả của doanh nghiệp cho các thị trường vốn.
Do đó, cấu trúc vốn có chi phí sử dụng vốn tối thiểu được gọi là cấu trúc vốn tối ưu. Rủi ro tài chính của một doanh nghiệp là tính khả biến thêm của thu nhập mỗi cổ phần với xác suất gia tăng của mất khả năng chi trả bắt nguồn từ việc doanh nghiệp sử dụng các nguồn vốn có chi phí tài chính cố định, như là nợ và cổ phần ưu đãi trong cấu trúc vốn của mình. Việc sử dụng đòn bẩy tài chính đưa đến một gia tăng trong rủi ro cảm nhận được cho các nhà cung cấp vốn của doanh nghiệp.
Để bù đắp rủi ro gia tăng này, lợi nhuận đòi hỏi sẽ cao hơn. Các thay đổi cấu trúc vốn thường chuyển các tín hiệu thông tin quan trọng về viễn cảnh tương lai của doanh nghiệp đến nhà đầu tư.
3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốnRủi ro kinh doanh của doanh nghiệp : Khi một doanh nghiệp ở trong giai đọan gặp phải khó khăn trong kinh doanh do bị cạnh tranh về giá cả hoặc việc vừa đưa ra thị trường một sản phẩm mới nên chưa có thị phần và phải chấp nhận thua lỗ trong thời gian này… Trong những trường hợp này các doanh nghiệp thường không mạo hiểm trong việc sử dụng nợ vay để bổ sung vốn kinh doanh góp phần làm thay đổi cấu trúc vốn hiện tại của doanh nghiệp.
Chính sách thuế của quốc gia cũng tác động trực tiếp đến cấu trúc vốn của một doanh nghiệp .Trong trường hợp doanh nghiệp sử dụng nợ thì phải trả khoản chi phí sử dụng vốn vay. Những khoản chi phí này lại được tính sau thuế do đó nếu chính sách của một qua gia phù hợp thì doanh nghiệp sẽ sử dụng nợ vì lãi vay thực sự mà doanh nghiệp phải trả sau thuế rất thấp.Như vậy cấu trúc vốn tác động đến quyết định chọn cấu trúc vốn thâm dụng nợ hay thâm dụng vốn cổ phần.
Tình hình tài chính của doanh nghiệp sẽ tác động trực tiếp đến cấu trúc vốn của doanh nghiệp.Trong trường hợp thiếu vốn muốn tăng vốn hoạt động thì doanh nghiệp phải quyết định chọn nguồn nào để bổ sung,nếu doanh nghiệp mà quyết định sử dụng nợ vay thì cấu trúc vốn của doanh nghiệp sẽ thiên về sử dụng nợ nhưng nếu doanh nghiệp có nguồn vốn tích lũy để cung cấp cho hoạt động kinh doanh thì khi đó doanh nghiệp sẽ sử dụng vốn bỏ sung mà không sử dụng vốn vay. Như vậy Chính khả năng tài chính của doanh nghiệp sẽ quyết định có nên vay hay là không.
Quan điểm của nhà quản lý quyết định có nên sử dụng nợ vay hay là không. Thực tế có một số nhà quản lý sẵn sàng sử dụng nợ để tăng lợi nhuận nhưng cũng có những nhà quản lý khác lại e dè khi quyết định sử dụng nợ chúng tôi đó quan điểm của nhà quản trị hết sức quan trọng trong việc ra quyết định này
Cơ Cấu Vốn Tối Ưu Là Gì? Căn Cứ Thiết Lập Cơ Cấu Vốn Tối Ưu
Cơ cấu vốn tối ưu là gì? Một cơ cấu vốn được gọi là tối ưu khi chi phí sử dụng vốn thấp nhất, đồng thời khi đó, giá thị trường của cổ phiếu của doanh nghiệp cũng là cao nhất. Cùng tìm hiểu các khái niệm về cơ cấu vốn tối ưu là gì, căn cứ thiết lập cơ cấu vốn tối ưu ở bài viết sau đây.
Nếu bạn gặp khó khăn khi sử dụng công cụ và các phần mềm phân tích số liệu hãy liên hệ với đội ngũ Tri Thức Cộng Đồng để được hỗ trợ sử dụng Dịch Vụ Hỗ Trợ SPSS của chúng tôi. Với kinh nghiệm hơn 10+ năm, Tri Thức Cộng Đồng cam kết mang đến cho bạn nhiều lợi ích nhất. Hãy liên hệ ngay với chúng tôi qua gmail ttcd.group@gmail.com hoặc Hotline 0946 88 33 50 để được tư vấn và báo giá trực tiếp.
Nhà quản trị tài chính doanh nghiệp có thể thiết lập một cơ cấu vốn tối ưu dựa trên cơ sở định tính và định lượng những nhân tố tác động đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp.
Vậy cơ cấu vốn tối ưu là gì? Một cơ cấu vốn được gọi là tối ưu khi chi phí sử dụng vốn thấp nhất, đồng thời khi đó, giá thị trường của cổ phiếu của doanh nghiệp cũng là cao nhất.
Như vậy có hai căn cứ để xác định vốn tối ưu của doanh nghiệp, đó là chi phí sử dụng vốn và giá thị trường của cổ phiếu. Tuy nhiên, giá thị trường của cổ phiếu là tiêu chí mang tính khách quan, không phải chỉ do những nhân tố nội tại của chính sách quản lý vốn của doanh nghiệp quyết định.
Giá cổ phiếu trên thị trường có thể là cao nhất nhưng không phải vì cơ cấu vốn tối ưu mà vì các yếu tố khách quan nào đó tác động. Ở đây tôi chỉ nghiên cứu giác độ chi phí sử dụng vốn thấp nhất dẫn đến các tác động tạo ra giá trị gia tăng cho doanh nghiệp.
Do vậy, thiết lập cơ cấu vốn tối ưu sẽ dựa trên cơ sở xác định chi phí sử dụng vốn thấp nhất. Tuy nhiên, các doanh nghiệp rất khó có thể đạt được điểm cơ cấu vốn tối ưu mà chỉ có thể tiến gần tới điểm cơ cấu vốn tối ưu đó. Nhưng làm thế nào xác định được cơ cấu vốn tối ưu, có định lượng được hay không? Đây là một vấn đề rất mới cả trong nghiên cứu lý luận lẫn áp dụng trong thực tiễn và đây cũng chính là nội dung của chuyên đề này.
Như vậy, có thể thấy việc thiết lập cơ cấu vốn tối ưu là nội dung quan trọng trong chính sách quản lý vốn của của một doanh nghiệp. Bất kỳ doanh nghiệp nào khi xây dựng chính sách quản lý vốn cũng nhằm vào ba mục tiêu: (i) huy động được vốn với qui mô tối đa, (ii) xác định cơ cấu vốn tối ưu và (iii) duy trì được cơ cấu vốn tối ưu.
Cả ba mục tiêu trên đều hướng tới mục tiêu cuối cùng là xây dựng, đảm bảo một cơ cấu vốn tối ưu về qui mô và chi phí. Có như vậy, doanh nghiệp mới có cơ hội đầu tư một các hiệu quả và đa dạng, sử dụng có hiệu quả vốn huy động.
2. Căn cứ thiết lập cơ cấu vốn tối ưuĐể có thể xác định được một cơ cấu vốn hợp lý cho doanh nghiệp thì việc nghiên cưú chi phí sử dụng vốn có tính tiên quyết. Đây là nhân tố tác động đến cơ cấu vốn có thể định tính và định lượng được, vì vậy xác định chính xác chi phí sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp có căn cứ thiết lập vốn tối ưu.
Chi phí vốn của doanh nghiệp được xác định trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận tối thiểu của việc sử dụng nguồn vốn đó. Tương ứng với hai bộ phận chính của cơ cấu vốn là Nợ và Vốn chủ sở hữu thì cũng sẽ có hai loại chi phí vốn.
Chi phí Nợ được hiểu là chi phí doanh nghiệp phải bỏ ra để huy động nợ. Chi phí Nợ có thể được xác định tương đối dễ dàng căn cứ vào các thông tin trên thị trường tài chính. Ví dụ, nếu một doanh nghiệp đã phát hành trái phiếu trên thị trường thì khi phát hành thêm trái phiếu sẽ căn cứ vào lãi suất đáo hạn của traí phiếu đó để xác định tỷ lệ lãi suất yêu cầu của nhà đầu tư.
Điểm khác biệt giữa chi phí Nợ và chi phí Vốn chủ sở hữu là chi phí Nợ được coi là chi phí trước khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp, còn chi phí Vốn chủ sở hữu là chi phí xác định sau khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
– Chi phí vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp gồm ba bộ phận chính, đó là: cổ phiếu ưu tiên, cổ phiếu thường và lợi nhuận giữ lại. Chi phí riêng lẻ của từng nguồn vốn trên sẽ tác động đến chi phí vốn chủ sở hữu, từ đó tác động đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp.
– Chi phí của cổ phiếu ưu tiên
Vì cổ phiếu ưu tiên có tỷ lệ chi trả cổ tức cố định, cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu tiên nên chi phí của việc sử dụng vốn do phát hành cổ phiếu ưu tiên sẽ được xác định trên cơ sở chuỗi niên kim cố định từ cổ tức hàng năm. Do vậy, chi phí của cổ phiếu ưu tiên kp bằng:
+ D: cổ tức trả hàng năm cho cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu tiên.
+ Po: Giá của cổ phiếu ưu tiên.
– Chi phí của cổ phiếu thường
Việc xác định chi phí của cổ phiếu thường phức tạp hơn so với chi phí của cổ phiếu ưu tiên. Chi phí của cổ phiếu thường được xác định dựa trên hai cách tiếp cận cơ bản (i) cách tiếp cận sử dụng mô hình tăng trưởng cổ tức DGM (Devidend Growth Model) và (ii) cách tiếp cận bằng mô hình định giá tài sản tài chính CAPM.
– Chi phí lợi nhuận giữ lại:
Chi phí lợi nhuận giữ lại chính là chi phí cơ hội đối với việc sử dụng lợi nhuận giữ lại của nhà đầu tư. Thay vì việc nhận được cổ tức vào cuối năm, các cổ đông chỉ đồng ý cho doanh nghiệp giữ lại lợi nhuận với điều kiện việc giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư sẽ tạo ra một tỷ suất sinh lời trong tương lai cao hơn tỷ lệ chi trả cổ tức hiện tại. Như vậy, đối với doanh nghiệp, để có thể sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư, doanh nghiệp phải mất chi phí vốn, đó chính là tỷ suất sinh lời mà nhà đầu tư yêu cầu đối với doanh nghiệp. Có 3 phương pháp để xác định chi phí này, xuất phát từ bản
chất của chi phí lợi nhuận giữ lại chính là chi phí cơ hội đối với nhà đầu tư: (i) phương pháp lãi suất trái phiếu cộng với phần bù rủi ro, (ii) phương pháp mô hình tăng trưởng cổ tức và (iii) phương pháp định giá tài sản tài chính CAPM.
+ Phương pháp lãi suất trái phiếu cộng phần bù rủi ro
Vì bất kỳ nhà đầu tư nào cũng có thể tiếp cận cơ hội đầu tư ít rủi ro nhất, đó là đầu tư vào trái phiếu chính phủ, tất nhiên với cơ hội đầu tư này, lãi suất nhận được là cố định. Do vậy, thay vì nhận cổ tức để tái đầu tư và trái phiếu chính phủ, nhà đầu tư đồng ý cho doanh nghiệp giữ lại lợi nhuận. Vì thế, chi phí của việc giữ lại lợi nhuận đối với doanh nghiệp chính là cơ hội có được lợi nhuận do đầu tư vào trái phiếu chính phủ của nhà đầu tư, cộng thêm một mức phần thưởng rủi ro .
Phương pháp này tương đối dễ áp dụng vì lãi suất trái phiếu chính phủ được công bố công khai trong các đợt phát hành. Tuy nhiên, tính không chính xác của phương pháp này là hệ số không phản ánh chính xác mức độ rủi ro của doanh nghiệp, vì thế, xác định chi phí của lợi nhuận giữ lại theo phương pháp này là không hoàn toàn chính xác.
+ Phương pháp mô hình tăng trưởng cổ tức
Cơ sở của việc xác định chi phí của lợi nhuận giữ lại bằng phương pháp này là thay vì nhận cổ tức, các cổ đông sẽ nhận được một số lượng cổ phiếu tương ứng với giá trị cổ tức sẽ nhận được. Khi đó, chi phí của việc giữ lại lợi nhuận được xác định theo phương pháp này sẽ tương tự như xác định chi phí của cổ phiếu thường.
Phương pháp này tương đối dễ áp dụng vì các thông tin về cổ tức, giá hiện tại của cổ phiếu và tỷ lệ tăng trưởng cổ tức dự tính hoàn toàn được cung cấp trên thị trường.
+ Phương pháp CAPM
Mô hình CAPM được William Sharp đề xuất năm 1963, và sau đó, năm 1965 đã được John Liner, Jan Mossin phát triển. Về lý thuyết, phương pháp CAPM cũng xác định chi phí lợi nhuận giữ lại chính là chi phí cơ hội của nhà đầu tư.
Cách tiếp cận của phương pháp này giống phương pháp lãi suất trái phiếu cộng với phần thưởng rủi ro, tuy nhiên, CAPM đưa ra cách xác định chính xác hơn chi phí của lợi nhuận giữ lại so với các phương pháp khác là xác định chi phí cơ hội của nhà đầu tư dựa trên tỷ suất sinh lời trung bình của thị trường, có được điều chỉnh bởi hệ số rủi ro, chứ không phải đơn giản chỉ dựa vào lãi suất trái phiếu chính phủ.
Việc áp dụng CAPM để xác định chi phí vốn của lợi nhuận giữ lại được coi là phương pháp ưu việt nhất. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất khi áp dụng phương pháp này là việc tính toán hệ số đòi hỏi phải có đầy đủ thông tin về lịch sử hoạt động của doanh nghiệp, vì đây là hệ số tính toán trên cơ sở số liệu thống kê.
Còn lãi suất trái phiếu chính phủ và lãi suất thị trường được xác định tương đối dễ dàng bởi các công ty tư vấn tài chính.
Tuy nhiên việc áp dụng CAPM cũng bộc lộ một số nhược điểm, đó là:
(1) CAPM chỉ xem xét mối quan hệ rủi ro, lợi nhuận trong khoản thời gian nhất định. Điều đó có nghĩa là nó bỏ qua yếu tố thời gian trong chuỗi phân tích. Thực tế, đây là vấn đề khá quan trọng vì khi thời gian không đủ lớn, các ước lượng trên cơ sở số liệu quá khứ sẽ thay đổi, như ước lượng hệ số .
(3) CAPM dựa trên sự sẵn có của tài sản phi rủi ro ở mức lãi suất đi vay và cho vay bằng nhau. Trên thực tế, sự khan hiếm, sự khan hiếm tài sản phi rủi ro là luôn luôn xảy ra. Ngoài ra một số giả định khác của CAPM cũng không thực tế, ví dụ như giả định không tồn tại thuế và phí giao dịch, hay thông tin đến với các nhà đầu tư là như nhau.
Mặc dù CAPM còn nhiều hạn chế, song CAPM vẫn được coi là nền móng cho lý thuyết đầu tư hiện đại, và được ứng dụng rộng rãi trong việc xác định chi phí vốn của doanh nghiệp.
2.2 Chi phí sử dụng vốn trung bìnhThông thường, một doanh nghiệp không sử dụng một loại vốn đơn lẻ mà sẽ kết hợp nhiều nguồn vốn khác nhau. Do vậy, chi phí vốn của doanh nghiệp sẽ được tính toán dựa trên chi phí bình quân gia quyền của các nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng. Tuy nhiên, doanh nghiệp sẽ lựa chọn các nguồn vốn sao cho chi phí bình quân gia quyền là thấp nhất.
Giả sử doanh nghiệp sử dụng D: Nợ, E: Vốn chủ sở hữu, khi đó tổng giá trị thị trường của doanh nghiệp là V, V = D+E. Tất nhiên, cả giá trị Nợ và Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp lúc này đều được tính theo giá thị trường.
Ta có thể thấy chi phí bình quân gia quyền của vốn bao gồm: chi phí nợ và chi phí vốn chủ sở hữu. Chi phí Nợ chịu tác động của thuế thu nhập doanh nghiệp, nên sẽ giảm đúng bằng phần tiết kiệm thuế, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp càng lớn thì chi phí nợ càng thấp. Đây chính là cơ sở của việc sử dụng đòn bẩy tài chính.
Mặt khác khi doanh nghiệp tăng sử dụng Nợ, tỷ trọng Nợ trên vốn chủ sở hữu tăng lên, mức độ rủi ro tăng lên và chủ nợ sẽ đòi hỏi lãi suất cao hơn, doanh nghiệp cũng bị áp lực tài chính là xuất hiện chi phí khánh tận, chính điều này làm triệt tiêu lợi thế của đòn cân nợ. Chương sau chúng ta sẽ đi tìm lúc nào thì doanh nghiệp ngưng sử dụng nợ vay.
Chi phí vốn trung bình của doanh nghiệp sẽ thay đổi khi một trong các nguồn vốn riêng lẻ có chi phí thay đổi. Có hai lý do để chi phí vốn sẽ thay đổi. Thứ nhất là do hoạt động đầu tư của doanh nghiệp tăng mức độ rủi ro, khi đó nhà đầu tư sẽ đòi hỏi tỷ suất lợi nhuận cao hơn để bù đắp mức độ rủi ro tăng lên.
Do đó, chi phí vốn của doanh nghiệp sẽ tăng lên. Thứ hai, là do cung cầu vốn trên thị trường tài chính thay đổi. Khi cầu về vốn tăng, hay doanh nghiệp muốn huy động thêm một lượng vốn mới thì chi phí vốn hay lãi suất trên thị trường sẽ tăng lên tương ứng vì lượng cung vốn trên thị trường lúc này thấp hơn so với nhu cầu của các doanh nghiệp. Do vậy, chi phí bình quân gia quyền của vốn sẽ thay đổi trong từng thời kỳ, với từng lượng vốn huy động khác nhau.
2.3 Sự đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuậnVì vậy, doanh nghiệp phải đánh đổi giữa việc chấp nhận rủi ro để kỳ vọng nhận được lợi nhuận lớn hơn. Tuy nhiên, lợi nhuận thu được trong tương lai không phải là chắc chắn, do vậy chỉ những giám đốc dám mạo hiểm, dám chấp nhận rủi ro mới có khả năng thu được lợi nhuận lớn.
Đối với doanh nghiệp, việc dùng vốn chủ sở hữu an toàn hơn, nhưng chi phí lại cao hơn, còn việc sử dụng nợ sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh toán song chi phí thấp hơn.
Tổng hợp: Tri Thức Cộng Đồng
Cấu Trúc Vốn Tối Ưu Và Nhân Tố Ảnh Hưởng
(i) tối đa hóa EPS,
(ii) tối thiểu hóa rủi ro
(iii) tối thiểu hóa chi phí sử dụng vốn.
Một công ty có thể có một cấu trúc vốn tối ưu bằng cách sử dụng đòn bẩy tài chính phù hợp. Như vậy Công ty có thể hạ thấp chi phí sử dụng vốn thông qua việc gia tăng sử dụng nợ (vì khi sử dụng nợ Công ty sẽ được hưởng lợi ích từ tấm chắn thuế). Tuy nhiên khi tỷ lệ nợ gia tăng thì rủi ro cũng gia tăng do đó nhà đầu tư sẽ gia tăng tỷ lệ lợi nhuận đòi hỏi rE. Mặc dù sự gia tăng rE lúc đầu cũng không hoàn toàn xóa sạch lợi ích của việc sử dụng nợ như là một nguồn vốn rẻ hơn cho đến khi nào nhà đầu tư tiếp tục gia tăng lợi nhuận đòi hỏi khiến cho lợi ích của việc sử dụng nợ không còn nữa.
Khi thiết lập, cấu trúc vốn tối ưu thường chiu ảnh hưởng của một số yếu tố sau:
Thứ nhất, rủi ro doanh nghiệp và thuế thu nhập doanh nghiệp: rủi ro phát sinh đối với tài sản của công ty ngay cả khi công ty không sử dụng nợ. Công ty nào có rủi ro doanh nghiệp càng lớn thì càng hạ thấp tỉ lệ nợ tối ưu. Do lãi vay là yếu tố chi phí trước thuế nên sử dụng nợ giúp công ty tiết kiệm thuế. Tuy nhiên điều này sẽ không còn ý nghĩa nữa đối với những công ty nào được ưu đãi hay vì lý do gì đó mà thuế thu nhập ở mức thấp.
Thứ hai,sự chủ động về tài chính: sử dụng nợ nhiều làm giảm đi sự chủ động về tài chính đồng thời làm xấu đi tình hình bảng cân đối kế toán khiến cho những nhà cung cấp vốn ngần ngại cho vay hay đầu tư vốn vào công ty.
Thứ ba, các tiêu chuẩn ngành: cấu trúc vốn giữa các ngành công nghiệp khác nhau rất nhiều. Các nhà phân tích tài chính, các Ngân Hàng đầu tư, các cơ quan xếp hạng trái phiếu, các nhà đầu tư cổ phần thường và các Ngân Hàng thương mại thường so sánh rủi ro tài chính của doanh nghiệp, đo lường bởi các tỷ số khả năng thanh toán lãi vay, khả năng thanh toán chi phí tài chính cố định và tỷ lệ đòn bẩy với các tiêu chuẩn hay định mức của ngành hoạt động. Tóm lại các nghiên cứu về tác động của ngành hoạt động đối với cấu trúc vốn thường đi tới kết luận là có một cấu trúc vốn tối ưu cho các doanh nghiệp cá thể.
Thứ tư, tác động của tín hiệu: khi doanh nghiệp phát hành chứng khoán mới, sự kiện này có thể được coi là đang cung cấp một tín hiệu cho thị trường tài chính về viễn cảnh tương lai của doanh nghiệp hay các hoạt động tương lai do các Giám đốc của doanh nghiệp hoạch định. Những tín hiệu do các thay đổi cấu trúc vốn cung cấp là đáng tin cậy vì nếu các dòng tiền tương lai không xảy ra, doanh nghiệp phải chịu số tiền phạt tức chi phí phá sản có thể có. Nói chung, các nghiên cứu về thay đổi cấu trúc vốn đều cho rằng việc cung ứng chứng khoán mới đưa tới các giá đáp ứng của chứng khoán giảm.
Việc mua lại cổ phần thường là sẽ đưa tới các lợi nhuận được công bố dương lớn từ cổ phần thường của doanh nghiệp. Các hành động làm tăng đòn bẩy tài chính thường gắn với thu nhập cổ phần dương và các hành động làm giảm đòn bẩy tài chính gắn với thu nhập cổ phần âm. Vì vậy khi một doanh nghiệp thực hiện quyết định thay đổi về cấu trúc vốn, doanh nghiệp phải chú ý đến tín hiệu có thể có về các viễn cảnh thu nhập tương lai và hiện tại của doanh nghiệp cũng như các dự định của các giám đốc mà giao dịch được đề xuất sẽ chuyển đến thị trường.
Thứ sáu, các hàm ý về quản trị của lý thuyết cấu trúc vốn: quyết định cấu trúc vốn là một trong những quyết định trọng tâm quan trọng mà các giám đốc tài chính phải quan tâm. Trước hết, hầu như chắc chắn rằng các thay đổi trong cấu trúc vốn sẽ đưa đến các thay đổi trong giá trị thị trường của doanh nghiệp. Thứ hai, lợi ích của tấm chắn thuế từ nợ đưa đến giá trị doanh nghiệp gia tăng, ít nhất là đến điểm mà chi phí đại lý và chi phí phá sản gia tăng làm bù trừ lợi thế về thuế của nợ. Thứ ba, cấu trúc vốn tối ưu chịu ảnh hưởng nặng nề bởi rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ tư, khi các giám đốc thực hiện các thay đổi thể hiện trong cấu trúc vốn của doanh nghiệp, các hành động này sẽ chuyển các thông tin quan trọng đến các nhà đầu tư.
Có phải việc duy trì số lượng nhân viên và các cơ sở hoạt động không hiệu quả làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác vì lợi ích lâu dài của nhân viên hay không?
Trong các giao dịch mua lại bằng vốn vay, các trái chủ có thực sự bị thiệt hại khi tính đến các điều khoản bảo vệ trong hợp đồng ký kết lúc họ mua trái phiếu với mối liên hệ giữa lợi tức trái phiếu và thỏa hiệp bảo vệ không?
Thứ tám, các đòi hỏi của nhà cho vay và các cơ quan xếp hạng trái phiếu: các đòi hỏi này thường định ra các giới hạn cho việc chọn lựa cấu trúc vốn của doanh nghiệp như là một điều kiện để cung cấp tín dụng hay duy trì xếp hạng của trái phiếu hoặc cổ phần ưu đãi.
Cập nhật thông tin chi tiết về Khái Niệm Về Cấu Trúc Vốn Tối Ưu trên website Nhatngukohi.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!