Bạn đang xem bài viết Khái Niệm Quản Lý Là Gì? Vì Sao Phải Hiểu Khái Niệm Quản Lý được cập nhật mới nhất trên website Nhatngukohi.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Khái niệm quản lý là gì? Vì sao phải hiểu khái niệm quản lý
định nghĩa
về
thống trị
quản lý được khái niệm là một công việc mà một người lãnh đạo học suốt đời không thấy chán và cũng là sự bắt đầu của những gì họ tìm hiểu. cai quản được cho biết như là nghĩa vụ của một nhà lãnh đạo thực thụ, nhưng không phải là sự bắt đầu để họ khai triển công việc. giống như vậy, có bao nhiêu nhà lãnh đạo tài ba thì có bấy nhiêu kiểu khái niệm và giải thích về cai quản.
Vậy suy cho cùng thống trị là gì? định nghĩa quản lý là yêu cầu tối thiểu nhất của việc lý giải vấn đề thống trị dựa trên lí luận giải và nghiên cứu quản lý học. Xét trên phương diện nghĩa của từ, cai quản thường được hiểu là chủ trì hay phụ trách một công việc nào đó.
bản thân định nghĩa cai quản có tính đa nghĩa cần có sự không giống biệt giữa nghĩa rộng và nghĩa hẹp. hơn nữa, do sự khác biệt về niên đại, thế giới, chế độ, nghề nghiệp nên thống trị cũng có nhiều lý giải, cho biết không giống nhau. Cùng với sự phát triển của cách thức thế giới hoá sản xuất và sự xây dựng rộng trong nhận thức của con người thì sự khác biệt về nhận thức và giải thích định nghĩa quản lí càng trở nên rõ rệt.
quản lý
theo
khái niệm
của các trường phái
thống trị
học
– Tailor: “Làm quản lý là bạn phải biết rõ: muốn người khác làm việc gì và hãy để ý đến phương pháp tốt nhất, kinh tế nhất mà họ sử dụng ” .
– Fayel: “Quản lý là một hoạt động mà mọi tổ chức (gia đình, công ty, chính phủ) đều có, nó gồm 5 yếu tố tạo thành là: plan, đơn vị, chỉ đạo, điều chỉnh và kiểm soát. thống trị chính là thực hiện kế hoạch, đơn vị, chỉ đạo điều chỉnh và làm chủ ấy”.
– Hard Koont: “Quản lý là xây dựng và duy trì một nơi tốt giúp con người hoàn thiện một hướng dẫn kết quả mục đích đang định”.
– Peter F Druker: “Suy cho cùng, cai quản là thực tiễn. Bản chất của nó k nằm ở nhận thức mà là ở hành động; kiểm chứng nó k nằm ở sự logic mà ở thành quả; quyền uy duy nhất của nó là thành tích”.
– Peter. F. Dalark: “Định nghĩa thống trị phải được hạn chế bởi nơi bên ngoài nó. Theo đó, quản lý gồm có 3 tính năng chính là: Quản tại saoanh nghiệp, cai quản giám đốc, quản lý công việc và nhân công”.
Chủ trương của Peter. F. Dalark là hạn chế công ty từ góc độ xã hội, lấy cai quản sử dụng chức năng chính của doanh nghiệp. vì vậy, cai quản trở thành chức năng và vai trò của tổ chức xã hội, nó cũng sẽ thông qua các doanh nghiệp góp phần xây dụng chế độ không gian mới để đạt được mục tiêu lý tưởng là “một xã hội tự do và phát triển“. Nếu k có quản lý kết quả thì công ty k thể tồn tại và từ đó k thể thiết lập một không gian tự do và phát triển.
Từ đó đủ sức thấy, cơ sở chính trong khắc phục độ khó của vấn đề là “quan điểm về hệ thống“, cơ sở chính trong khắc phục độ khó về thời gian là “quan niệm về sự chuyển động”. như vậy, đặc điểm lớn nhất trong luận của Peter F. Dalark là cách Nhìn hệ thống mở và chuyển động”. Đây cũng là quan điểm cốt lõi trong tư tưởng triết học về thống trị của ông.
Tư tưởng triết học về
thống trị
của Peter F. Dalark
Quản lý doanh nghiệp phải theo nguyên tắc: “lấy kết quả kinh tế thực tế làm nguyên tắc hoạt động, đây là một mẹo Quan sát tổng thể quét thành tích sử dụng cốt lõi”.
nguyên tắc quản lý dành cho giám đốc cần có động lực mạnh mẽ quản lý mục đích và làm chủ bản thân để họ trở thành một người giám đốc thông minh.
quản lý công việc thì nhấn mạnh: công việc cần có sức sản xuất và phải thông qua những công cụ đánh giá, tổng hợp, kiểm soát và thí nghiệm.
thống trị nhân lực coi trọng gốc nhân lực, làm cho họ có thời cơ, chủ động phát huy ưu điểm của mình, thoả mãn nhu cầu về chức năng và địa vị thế giới của họ trong công việc, đưa đến cho họ cơ hội, lợi ích như nhau để mỗi người thể hiện giá trị, hoài bão của mình.
tổng kết, quản lý là quan điểm chứ chẳng hề kỹ thuật, là tự do chứ chẳng phải bị khống chế, là Nhiệm vụ thực tế chứ không phải lý luận; là thành tích chứ chẳng hề tiềm năng, là trách nhiệm chứ chẳng phải quyền lực; là cống hiến chứ không hề thăng hến; là thời cơ chứ không phải chướng ngại; là dễ dàng chứ không phải khó khăn.
như chúng ta đều biết, quản lý thực chất cũng là một hành vi, vừa mới là hành vi thì cần phải có người gây ra và người chịu ảnh hưởng. tiếp theo nên có mục đích của hành vi, đặt ra câu hỏi tại sao làm như vậy? thành ra, để tạo dựng nên hoạt động cai quản trước hết nên có chủ thể quản lý: nói rõ ai là người quản lý? Sau đó cần định hình thị trường quản lý: cai quản cái gì? Cuối cùng cần định hình mục đích quản lý: thống trị vì cái gì?
Có được 3 nguyên nhân trên nghĩa là có được điều kiện cơ bản để hình thành nên hoạt động cai quản. song song cần quan tâm rằng, bất cứ hoạt động cai quản nào cũng không hề là hoạt động độc lập, nó cần được tiến hành trong nơi, điều kiện nhất định nào đó.
yếu tố
tạo thành nên hoạt động
thống trị
Với những nghiên cứu trên mọi hoạt động thống trị đều phải do 4 nguyên nhân cơ bản sau cấu thành: – Chủ thể cai quản, trả lời câu hỏi: do ai quản lý? – Khách thể quản lý, trả lời câu hỏi: cai quản cái gì? – mục đích thống trị, trả lời câu hỏi: quản lý vì cái gì?
– nơi và điều kiện tổ chức, trả lời câu hỏi: cai quản trong nơi nào?
Dựa trên chức năng, vai trò của những nguyên nhân trong thống trị kể trên và liên kết lôgic giữa chúng, có thể khái quát ý nghĩa cơ bản của thống trị. Thông thường mà nói, cai quản là hành vi mà những thành viên trong đơn vị thực hiện ở một môi trường nhất định nhằm nâng cao năng suất công việc, để đạt được mục đích của tổ chức.
Thực ra, nếu một mực truy đến cùng câu hỏi “quản lý là gì?” thì chính mình câu hỏi gần như không có trị giá. Cho dù chúng ta có bàn thảo, tìm hiểu ra sao, về mặt lí bàn luận mà nói, chúng ta luôn luôn k đạt được sự thống nhất, trên thực tế cũng không thể đưa ra một kết bàn luận chung. Nhưng chính vì câu hỏi “quản lý là gì?” có sức tác động sâu rộng đến mỗi một học giả nghiên cứu chủ đề cai quản, đến mỗi một người thực hiện công việc quản lý như vậy nên sử dụng rõ chủ đề này mới thực sự có ý nghĩa, mặc dù để làm rõ chủ đề “quản lý là gì?” quả thực là công việc không mấy không khó khăn.
thống trị
là sự
phối hợp
của ba phương diện
Chúng ta hãy bàn về định nghĩa “quản lý” trên phạm vi rộng to hơn, quy mô hơn như trên phạm vi quốc gia chẳng hạn. Trong một tờ báo có đăng tải số liệu đo đạt năm 2001 cho biết: doanh thu bình quân đầu người nước Mỹ bằng 11 lần một số nước châu Á. doanh thu bình quân đầu người của Mỹ chẳng phải do một người Mỹ mà là trị giá bình quân của all người dân Mỹ tạo nên. Sự mẹo biệt về thu nhập bình quân này chẳng phải do sự mẹo biệt về chỉ số giỏi của người dân hai nước mà là do khả năng tương tác của họ khác nhau. Cụ thể nói đến công việc thì đó là phương thức cai quản và chiến lược cai quản của 2 nước là khác nhau.
có thể đưa ra kết bàn luận rằng: cai quản k không khó khăn chỉ là khái niệm, nó là sự kết hợp của 3 phương diện:
Thứ nhất, thông qua tập thể để xúc tiến tính tích cực của cá nhân. Thứ hai, điều hoà liên kết giữa người với người, giảm mâu thuẫn giữa hai bên. Thứ ba, gia tăng cường hợp tác hỗ trợ lẫn nhau, thông qua hỗ trợ để làm được những việc mà một cá nhân không thể làm được, thông qua hợp tác xây dựng trị giá lớn hơn giá trị một mình – giá trị tập thể
kinh doanh
và
quản lý
muốn làm cho một công ty tăng trưởng tốt, ngoài công tác quản lý tốt, còn cần nghiên cứu phương hướng phát triển, mục tiêu phấn đấu và phương thức vận hành của công ty phụ thuộc tình ảnh thực tiễn trong và ngoài công ty, biến kết quả nghiên cứu thành sách lược khoa học và hành động thực tiễn để thu được ích lợi kinh tế lớn. Những điều này chính là hoạt động mua bán.
Từ ý nghĩa thông thường, mua bán và cai quản vừa có tính thống nhất, vừa có tính không giống biệt. Nhìn từ lịch sử, quản lý là sản phẩm của quá trình xã hội hoá lao động, còn mua bán là sản phẩm của kinh tế thương mại. Nhìn từ phạm vi vận dụng, thống trị được dùng trong mọi tổ chức, kinh doanh chỉ sử dụng trong doanh nghiệp. Trên phương diện mục tiêu, mục tiêu của quản lý là nâng cao năng suất của đơn vị, mục đích kinh doanh là nâng cao quyền lợi kinh tế. Nhìn từ content cấu thành, Fayel cho rằng mua bán gồm những phương diện sau:
– Hoạt động kỹ thuật (sản xuất, chế tạo, gia công). – Hoạt động thương mại (mua nguyên liệu, tiêu thụ, phân phối). – Hoạt động tài vụ (tập kết và sử dụng like đáng nhất nguồn vốn). – Hoạt động an ninh (bảo vệ tài sản và con người). – Hoạt động kế toán (hoá đơn tài chính, biểu phụ trách tài sản, vốn, hoạt động thống kê). – Hoạt động thống trị (kế hoạch, tổ chức, điều chỉnh, chỉ đạo, kiểm soát).
tính năng của mua bán chính là đảm bảo cho sáu hoạt động trên được tiến hành thuận tiện, để có được hiệu quả mua bán cao nhất. Từ đó đơn giản nhận thấy rằng, kinh doanh là all hoạt động kinh tế của một doanh nghiệp nhằm thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp ấy. Ở góc độ DN, thống trị không gồm có mua bán, mà kinh doanh gồm có cai quản. Phạm vi của kinh doanh rộng to quản lý, nội dung cũng phức tạp hơn.
cai quản
và lãnh đạo
Trong không gian ngày nay, ở nơi nào chúng ta đủ nội lực nhìn thấy lãnh đạo: mỗi đất nước đều có Đảng cầm quyền và Chính phủ lãnh đạo; các doanh nghiệp đều có chủ tịch hội đồng quản trị, chủ tịch điều hành, tổng giám đốc, giám đốc bộ phận lãnh đạo; quân đội cũng không thể rời xa sự lãnh đạo của các quan chức quân đội các cấp. Ngay cả các tổ chức phi chính phủ cũng có người đứng trên đỉnh có quyền uy lãnh đạo các member trong đơn vị.
Những nhà thống trị học có những quan niệm không giống nhau về khái niệm lãnh đạo, nhưng nội dung bản chất là giống nhau. Họ đều cho rằng lãnh đạo là người dẫn dắt cấp dưới thực hiện mục đích của tổ chức. thống trị và lãnh đạo đều có mục đích là thực hiện mục tiêu của đơn vị, nhưng chúng có điểm không giống biệt rõ rệt như sau:
* Lãnh đạo và cai quản k thuộc cùng một phạm trù.
Lãnh đạo là một tính năng của cai quản, thường được gọi là tính năng lãnh đạo, còn tính năng không giống của cai quản lại không hề là lãnh đạo. Ví dụ: công việc mà những người tham vấn trong tổ chức sử dụng là công tác quản lý, nhưng chẳng phải là công tác lãnh đạo. quản lý ở đây chỉ hành vi quản lý, công tác lãnh đạo vừa bao gồm hành vi thống trị, vừa gồm có hoạt động nghiệp vụ không giống. Ví dụ: một người lãnh đạo công ty cần gặp và tiếp nhân vật cần thiết, tham gia đàm phán, tham gia những hoạt động chung.
Thông thường, lãnh đạo chủ yếu là lãnh đạo con người, xử lý liên kết giữa người với người, đặc biệt là quan hệ cấp trên và cấp dưới. Đây là chủ đề cốt lõi trong hoạt động thống trị. Còn về quản lý, ngoài thống trị con người, phân khúc của thống trị còn gồm có tài chính, vật chất. thống trị k chỉ xử lý gắn kết giữa người với người mà còn phải xử lý mối gắn kết tài chính và vật chất, giữa vật chất và con người, giữa con người và tài chính. Phạm vi mà quản lý đề cập đến rộng hơn nhiều đối với lãnh đạo.
Lãnh đạo và thống trị thuộc 2 tầng hoạt động không giống nhau song chúng lại có quan hệ mật thiết khó tách rời. Hoạt động lãnh đạo hội tụ vào việc mang ra quyết sách, xác định mục đích, plan phấn đấu, vạch ra chính sách tương ứng và phương hướng lãnh đạo khu vực, ban lĩnh vực, tổ chức tiến lên phía trước… Còn quản lý tụ họp giữ vững và tăng trưởng cường hoạt động của đơn vị để đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu mà lãnh đạo vừa mới xác định.
Nguồn: https://gdnn.edu.vn/
Khái Niệm, Đặc Điểm Của Quản Lý Hành Chính Nhà Nước
77627
Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động chấp hành, điều hành của cơ quan hành chính nhà nước, của các cơ quan Nhà nước khác và các tổ chức được Nhà nước ủy quyền quản lý trên cơ sở của luật và để thi hành luật nhằm thực hiện chức năng tổ chức, quản lý, điều hành các quá trình xã hội của Nhà nước. Nói cách khác, quản lý hành chính nhà nước (nói tắt là quản lý Nhà nước) chính là quản lý Nhà nước trong lĩnh vực hành pháp – được thực hiện bởi ít nhất một bên có thẩm quyền hành chính nhà nước trong quan hệ chấp hành, điều hành.
Quản lý hành chính nhà nước trước hết và chủ yếu được thực hiện bởi hệ thống cơ quan hành chính nhà nước: Chính phủ và các cơ quan chính quyền địa phương các cấp, không kể một số tổ chức thuộc Nhà nước mà không nằm trong cơ cấu quyền lực như các doanh nghiệp.
2. Ðặc điểm của quản lý hành chính nhà nước
– Các cơ quan hành chính nhà nước thực thi quyền hành pháp, không có quyền lập pháp và tư pháp nhưng góp phần quan trọng vào qui trình lập pháp và tư pháp. Tính chấp hành của hoạt động quản lý hành chính nhà nước được thể hiện ở sự thực hiện trên thực tế các văn bản hiến pháp, luật, pháp lệnh và nghị quyết của cơ quan lập pháp- cơ quan dân cử.
– Tính điều hành của hoạt động quản lý hành chính nhà nước thể hiện ở chổ là để đảm bảo cho các văn bản pháp luật của cơ quan quyền lực được thực hiện trên thực tế thì các chủ thể của quản lý hành chính nhà nước phải tiến hành các hoạt động tổ chức và chỉ đạo trực tiếp đối với các đối tượng quản lý thuộc quyền.
– Ðể đảm bảo sự thống nhất của hai yếu tố này đòi hỏi rất nhiều yêu cầu. Trong đó, quản lý hành chính nhà nước trước hết phải bảo đảm việc chấp hành văn bản của cơ quan dân cử đaị diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, từ đó mà thực hiện quản lý điều hành. Mọi hoạt động chấp hành và điều hành đều phải xuất phát từ mục đích nhằm phục vụ cho nhân dân, đảm bảo đời sống xã hội cho nhân dân về mọi mặt, tương ứng với các lĩnh vực trong quản lý hành chính nhà nước.
Ðiều này thể hiện ở việc các chủ thể quản lý hành chính căn cứ vào tình hình, đặc điểm của từng đối tượng quản lý để đề ra các biện pháp quản lý thích hợp. Tính chủ động sáng tạo còn thể hiện rõ nét trong hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật hành chính để điều chỉnh các hoạt động quản lý Nhà nước. Tính chủ động sáng tạo được quy định bởi chính bản thân sự phức tạp, đa dạng, phong phú của đối tượng quản lý và đòi hỏi các chủ thể quản lý phải áp dụng biện pháp giải quyết mọi tình huống phát sinh một cách có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, chủ động và sáng tạo không vượt ra ngoài phạm vi của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật Nhà nước. Ðể đạt được điều này, đòi hỏi tôn trọng triệt để tất cả các nguyên tắc trong hệ thống các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước.
– Trước hết là bộ máy cơ quan Nhà nước – đây là hệ thống cơ quan nhiều về số lượng, biên chế; phức tạp về cơ cấu tổ chức; đa dạng về chức năng, nhiệm vụ cũng như phương pháp hoạt động; có cơ sở vật chất to lớn, có đối tượng quản lý đông đảo, đa dạng, chủ thể chủ yếu là cơ quan hành chính nhà nước, đó là điều kiện quan trọng để thực hiện nhiệm vụ quản lý. Các cơ quan hành chính trực tiếp xử lý công việc hàng ngày của Nhà nước, thường xuyên tiếp xúc với dân, giải quyết các yêu cầu của dân, là cầu nối quan trọng của Ðảng, Nhà nước với nhân dân. Nhân dân đánh giá chế độ, đánh giá Ðảng trước hết thông qua hoạt động của bộ máy hành chính.
– Bảo đảm tính liên tục và ổn định trong hoạt động quản lý. Liên tục để tránh lối làm việc hô hào, theo phong trào. Tính ổn định nhằm để đảm bảo các hoạt động như: lưu trữ hồ sơ, giấy tờ. Ðó có thể nói là trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước đối với xã hội.
Công tác quản lý hành chính nhà nước là hoạt động có mục đích và định hướng. Vì vậy, phải có chương trình, kế họach dài hạn, trung hạn và hàng năm. Có các chỉ tiêu vừa mang tính định hướng, vừa mang tính pháp lệnh; có hệ thống pháp luật vừa được áp dụng thực thi triệt để cho hoạt động quản lý, vừa tạo hành lang pháp lý cho hoạt động đặt dưới sự quản lý ấy.
Cán bộ quản lý Nhà nước phải là “công bộc” của nhân dân, biết lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân, thu hút được rộng rãi quần chúng nhân dân tham gia vào việc quản lý Nhà nước và xã hội. Chống quan liêu, cửa quyền, hách dịch, ức hiếp quần chúng.
Ðó chính là nghiệp vụ của một nền hành chính văn minh, hiện đại. Khi nói đến một “nền kinh tế tri thức”- nền kinh tế mà ở đó giá trị của tri thức, của sự hiểu biết được đặt lên hàng đầu-thì đội ngũ quản lý nền kinh tế tri thức ấy phải có một tầm vóc tương xứng. Quản lý Nhà nước khác với hoạt động chính trị ở chổ: trình độ kiến thức chuyên môn và kỹ năng quản lý thực tiễn làm tiêu chuẩn hàng đầu.
Khái Niệm Và Đặc Điểm Quản Lý Nhà Nước Đối Với Hoạt Động Bảo Hiểm Xã Hội
Khái niệm quản lý nhà nước
Quản lý
Để nghiên cứu khái niệm quản lý nhà nước, trước hết cần làm rõ khái niệm ” quản lý“. Thuật ngữ ” quản lý” thường được hiểu theo những cách khác nhau tuỳ theo góc độ khoa học khác nhau cũng như cách tiếp cận của người nghiên cứu. Quản lý là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội và khoa học tự nhiên. Mỗi lĩnh vực khoa học có định nghĩa về quản lý dưới góc độ riêng của mình và nó phát triển ngày càng sâu rộng trong mọi hoạt động của đời sống xã hội.
Theo quan niệm của C.MÁC: ” Bất kỳ lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào đó mà được tiến hành tuân theo một quy mô tương đối lớn đều cần có sự quản lý ở mức độ nhiều hay ít nhằm phối hợp những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất, sự vận động này khác với sự vận động của các cơ quan độc lập của cơ thể đó. Một nhạc công tự điều khiển mình, nhưng một dàn nhạc phải có nhạc trưởng”.
Tức theo Mác quản lý là nhằm phối hợp các lao động đơn lẻ để đạt được cái thống nhất của toàn bộ quá trình sản xuất. Ở đây Mác đã tiếp cận khái niệm quản lý từ góc độ mục đích của quản lý.
Theo quan niệm của các nhà khoa học nghiên cứu về quản lý hiện nay: Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để chúng phát triển phù hợp với quy luật, đạt tới mục đích đã đề ra và đúng với ý trí của người quản lý.
Theo cách hiểu này thì quản lý là việc tổ chức, chỉ đạo các hoạt động của xã hội nhằm đạt được một mục đích của người quản lý. Theo cách tiếp cận này, quản lý đã nói rõ lên cách thức quản lý và mục đích quản lý.
Như vậy, theo cách hiểu chung nhất thì quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý. Việc tác động theo cách nào còn tuỳ thuộc vào các góc độ khoa học khác nhau ,các lĩnh vực khác nhau cũng như cách tiếp cận của người nghiên cứu.
Quản lý nhà nước:
Theo Giáo trình quản lý hành chính nhà nước: ” Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN”.
Như vậy, quản lý nhà nước là hoạt động mang tính chất quyền lực nhà nước, được sửa dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Quản lý nhà nước được xem là một hoạt động chức năng của nhà nước trong quản lý xã hội và có thể xem là hoạt động chức năng đặc biệt.uản lý nhà nước được hiểu theo hai nghĩa.
Theo nghĩa rộng: quản lý nhà nước là toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước, từ hoạt động lập pháp, hoạt động hành pháp, đến hoạt động tư pháp.
Theo nghĩa hẹp: quản lý nhà nước chỉ bao gồm hoạt động hành pháp.
Quản lý nhà nước được đề cập trong đề tài này là khái niệm quản lý nhà nước theo nghĩa rộng; quản lý nhà nước bao gồm toàn bộ các hoạt động từ ban hành các văn bản luật, các văn bản mang tính luật đến việc chỉ đạo trực tiếp hoạt động của đối tượng bị quản lý và vấn đề tư pháp đối với đối tượng quản lý cần thiết của Nhà nước. Hoạt động quản lý nhà nước chủ yếu và trước hết được thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước, song có thể các tổ chức chính trị – xã hội, đoàn thể quần chúng và nhân dân trực tiếp thực hiện nếu được nhà nước uỷ quyền, trao quyền thực hiện chức năng của nhà nước theo quy định của pháp luật.
Đặc điểm quản lý nhà nước
Từ khái niệm trên về quản lý nhà nươc ta rút ra các đặc điểm của quản lý nhà nước như sau:
Quản lý nhà nước mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức cao và tính mệnh lệnh đơn phương của nhà nước. Quản lý nhà nước được thiết lập trên cơ sở mối quan hệ “quyền uy” và “sự phục tùng “.
Quản lý nhà nước mang tính tổ chức và điều chỉnh. Tổ chức ở đây được hiểu như một khoa học về việc thiết lập những mối quan hệ giữa con người với con người nhằm thực hiện quá trình quản lý xã hội. Tính điều chỉnh được hiểu là nhà nước dựa vào các công cụ pháp luật để buộc đối tượng bị quản lý phải thực hiện theo quy luật xã hội khách quan nhằm đạt được sự cân bằng trong xã hội.
Quản lý nhà nước mang tính khoa học, tính kế hoạch. Đặc trưng này đỏi hỏi nhà nước phải tổ chức các hoạt động quản lý của mình lên đối lên đối tượng quản lý phải có một chương trình nhất quán, cụ thể và theo những kế hoạch được vạch ra từ trước trên cơ sở nghiên cứu một cách khoa học.
Quản lý nhà nước là những tác động mang tính liên tục, và ổn định lên các quá trình xã hội và hệ thống các hành vi xã hội. Cùng với sự vận động biến đổi của đối tượng quản lý, hoạt động quản lý nhà nước phải diễn ra thường xuyên, liên tục, không bị gián đoạn. Các quyết định của nhà nước phải có tính ổn định, không được thay đổi quá nhanh. Việc ổn định của các quyết định của nhà nước giúp cho các chủ thể quản lý có điều kiện kiện toàn hoạt động của mình và hệ thống hành vi xã hội được ổn định.
Cơ cấu hệ thống và các yếu tố tạo nên hoạt động quản lý nhà nước
Cơ cấu, hệ thống quản lý nhà nước bao gồm các yếu tố sau đây tạothành: chủ thể quản lý, đối tượng quản lý và mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý trong quá trình quản lý.
Chủ thể quản lý nhà nước được xác định theo vùng lãnh thổ trên cơ sở hình thành các đơn vị hành chính và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau theo quy định của pháp luật. Hệ thống quản lý nhà nước được xây dựng theo hệ thống chức năng chiều dọc, tạo ra cơ cấu quản lý phù hợp với chức năng quản lý của từng lĩnh vực theo các cơ quan nhà nước và theo nghành. Hệ thống quản lý nhà nước là một tập hợp các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội được nhà nước uỷ quyền. Trong các cơ quan tổ chức đó, cán bộ, công chức nhà nước được xác định cụ thể về quyền và nghĩa vụ.
Xác định đối tượng quản lý nhà nước giúp cho ta trả lời câu hỏi ” quản lýai ” và suy cho cùng đối tượng quản lý nhà nước chính là con người, hay cụ thể hơn là hành vi con người trong xã hội. Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau có thể phân chia đối tượng quản lý nhà nước ra nhiều loại, như các cấp độ đối tượng quản lý (con người, tập thể, toàn bộ hệ thống tổ chức).
Trong quản lý nhà nước cần làm rõ khách thể của quản lý nhà nước. Khách thể của quản lý nhà nước chính là hệ thống các hành vi, hoạt động của con người, các tổ chức con người trong cuộc sống xã hội, là hệ thống trong đó bao trùm các lĩnh vực sản xuất và tái sản xuất các giá trị vật chất và tinh thần cũng như các điều kiện sống của con người trong xã hội. Có thể chia khách thể của quản lý nhà nước theo các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng…
Để xem xét được mối quan hệ giữa chủ thể quản lý, đối tượng quản lý và khách thể quản lý cần xem xét mối quan hệ này trong từng lĩnh vực cụ thể.
Các yếu tố tạo nên hoạt động của quản lý nhà nước: Mục đích nhiệm vụ của quản lý nhà nước; phương pháp quản lý nhà nước và chương trình quản lý nhà nước.
Mục đích, nhiệm vụ của quản lý nhà nước là mục tiêu hướng tới của chủ thể quản lý đối với đối tượng bị quản lý.
Phương pháp quản lý nhà nước là phương thức, cách thức mà chủ thể quản lý tác động lên khách thể quản lý (hành vi, đối tượng quản lý) nhằm đạt được những mục đích quản lý. Phương pháp quản lý nhà nước thể hiện ý chí của nhà nước, nó phản ánh thẩm quyền của các cơ quan nhà nước và được biểu hiện dưới những hình thức nhất định. Các phương pháp quản lý trong hoạt động quản lý nhà nước là: thuyết phục, cưỡng chế, hành chính, kinh tế, theo dõi, kiểm tra; ngoài ra còn những phương pháp riêng áp dụng trong quá trình thực hiện những chức năng riêng biệt hoặc những khâu những giai đoạn riêng biệt của quá trình quản lý.
Chương trình quản lý được diễn ra kế tiếp nhau theo trình tự thời gian tương ứng với việc giải quyết một số nội dung trong quản lý như: đánh giá tình hình các vấn đề cần giải quyết; chuẩn bị dự thảo quyết định; thông qua quyết định; ban hành quyết định; tổ chức thực hiện quyết định và kiểm tra đánh giá thực hiện các quyết định.
Tóm lại, quản lý nhà nước phụ thuộc vào các yếu tố nội tại trong nó. Muốn đánh giá hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước thì cần phải phân tích cơ cấu quản lý tạo nên hoạt động quản lý và sự tác động của từng yếu tố đó đến hoạt động quản lý.
Khái niệm về bảo hiểm xã hội
Cuộc sống con người là sự đấu tranh với chính bản thân mình, với xã hội xung quan nhằm đạt được một vị trí, một thế lực trong xã hội đó. Con đường chân chính để đạt mục đích đó là lao động. Trong quá trình lao động, con người không ngừng nỗ lực, phấn đấu để đạt kết quả cao nhất. Một trong những mục đích cuối cùng của con người là kinh tế. Đó cũng là một trong những mục tiêu của sự phát triển. Trong lao động, con người làm ra của cải cho chính bản thân mình và cho xã hội. Tuy vậy không phải bất cứ lúc nào sự nỗ lực của con người cũng được đền đáp xứng đáng. Có những sự nỗ lực đã gặp phải những khó khăn, chắc trở hoặc những rủi ro ngoài ý muốn do điều kiện tự nhiên, môi trường sống hoặc môi trường xã hội làm cho con người gặp khó khăn trong cuộc sống của mình, mà ta gọi chung là rủi ro trong lao động. Những rủi ro này có thể là: ốm đau, tai nạn, mất việc làm, già yếu, tử vong…; những rủi ro này làm cho người lao động giảm khả năng lao động dẫn đến việc làm giảm hoặc mất thu nhập, nói một cách chung nhất là gặp khó khăn về kinh tế trong cuộc sống hiện tại. Để khắc phục những rủi ro này thì chính sách bảo hiểm xã hội được coi là một chính sách mang tính chất xã hội có hiệu quả tốt, đáp ứng nhu cầu của phần lớn người lao động và được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng. Vậy bảo hiểm xã hội là gì?
Theo tổ chức Lao động thế giới (ILO): ” Bảo hiểm xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với tất cả các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng để đối phó với những khó khăn về kinh tế xã hội do bị ngừng việc hoặc bị giảm bớt nhiều về thu nhập, gây ra bởi ốm đau, gây mất khả năng lao động, tuổi già và chết, việc cung cấp chăm sóc y tế và tự cấp cho các gia đình đông con” [ Công ước quốc tế 102 ].
Theo điều 3.1 Luật Bảo hiểm xã hội do Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2006: ” Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội”.
Từ các quan điểm về BHXH trên chúng ta có thể khái quát về BHXH như sau:
Quỹ BHXH được sử dụng để trả lương hưu và các khoản trợ cấp BHXH cho người lao động nhằm góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho người lao động và gia đình họ đồng thời góp phần bảo vệ an toàn xã hội.
Đối tượng của BHXH chính là thu nhập ( có thể coi là số tiền ) bị biến động giảm hoặc mất do các trường hợp được quy định trong Luật Bảo hiểm xã hội của những người lao động tham gia BHXH.
Bảo hiểm xã hội đã lấy số đông bù số ít và thực hiện chức năng phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang giữa những người lao động có thu nhập thấp hơn, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc. Nói cách khác, BHXH góp phần đảm bảo sự “thăng bằng” về thu nhập cho người lao động và gia đình họ. Điều này đã góp một phần vào việc thực hiện công bằng xã hội.
Đặc điểm của bảo hiểm xã hội
Từ việc nghiên cứu khái niệm về bảo hiểm xã hội ở trên ta có thể đưa ra những đặc điểm cơ bản của BHXH như sau:
Quỹ tài chính tập trung được hình thành (nguồn thu quỹ BHXH ) thông qua sự đóng góp của các bên tham gia BHXH: Người lao động, người sửa dụng lao động, tiền sinh lời của hoạt động đầu tư quỹ và có sự hỗ trợ của nhà nước, có thể được hình thành từ các nguồn thu hợp pháp khác ( nguồn này ở Việt Nam không đáng kể và hầu như không có).
Việc tham gia BHXH về nguyên tắc là bắt buộc đối với mọi người lao động làm công ăn lương trong các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức. Trừ một số trường hợp, người lao động có thu nhập không ổn định do công việc làm thường xuyên không ổn định, hoặc theo mùa vụ.
Nguồn đóng của các bên tham gia được đưa vào quỹ riêng độc lập, tập trung nằm ngoài Ngân sách Nhà nước để chi trợ cấp cho các chế độ và hoạt động BHXH.
Số tiền tạm thời nhàn rỗi của quỹ được đầu tư sinh lời nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ.
Quyền hưởng các chế độ trợ cấp BHXH dựa trên nguyên tắc phải gắn liền với nghĩa vụ đóng góp BHXH của người lao động.
Hoạt động BHXH là hoạt động chịu sự tác động, ảnh hưởng của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Song khái quát lại thì hoạt động BXHH chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố cơ bản sau:
Sự phát triển của nền kinh tế
Sự phát triển của mỗi nền kinh tế là minh chứng cho trình độ văn minh của xã hội. Xã hội càng văn minh thì cuộc sống của con người càng được đảm bảo vững chắc. Trong bất cứ hoạt động nào, thì trình độ phát triển của xã hội cũng là một nhân tố quyết định tới việc chi phối các hoạt động của xã hội đó. Hoạt động BHXH cũng là một chính sách không nằm ngoài sự ảnh hưởng đó. Xã hội càng phát triển, nền kinh tế càng phát triển thì các hoạt động thu, quản lý quỹ, chi trả các chế độ trợ cấp trở nên chuyên nghiệp hơn. Vấn đề hình thành quỹ, công tác ban hành luật BHXH, công tác tuyên truyền nhận thức về BHXH và cuối cùng là công tác quản lý hoạt động BHXH cũng trở nên chuyên môn hoá hơn. Trình độ phát triển của nền kinh tế làm cho bánh xe hoạt động BHXH trở nên “trơn chu” hơn, hiệu quả hơn.
Hệ thống chính sách pháp luật của nhà nước
Hệ thống chính sách pháp luật của nhà nước phản ánh mức độ “trơn chu”, chuyên nghiệp hoá của toàn bộ hoạt động BHXH. Các chính sách càng rõ ràng, càng phù hợp với điều kiện thực tế khách quan bao nhiêu thì hoạt động BHXH càng chuẩn xác bấy nhiêu. Thực tế đã minh chứng, quốc gia nào có hệ thống chính sách pháp luật càng rõ ràng, càng minh bạch thì các hoạt động trong nội tạng của quốc gia đó càng chính xác. Các chính sách pháp luật của nhà nước nó phản ánh sự ưu tiên đối với một hoạt động cụ thể. Chính sách BHXH của nhà nước ảnh hưởng đến việc thực hiện quản lý, tổ chức hoạt động BHXH. Nó thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với đời sống người lao động nói riêng và tới các phúc lợi của xã hội nói chung. Hệ thống chính sách pháp luật nhà nước về BHXH càng rõ ràng, chi tiết thì việc thực hiện các hoạt động BHXH càng thiết thực, và BHXH mới thực sự trở về với đúng bản chất của nó – đảm bảo cuộc sống cho người lao động.
Người sử dụng lao động
Người sử dụng lao động là một mắt xích quan trọng ảnh hưởng tới hoạt động BHXH. Người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng BHXH theo quy định của pháp luật, bảo quản sổ, lập hồ sơ cho người lao động, trả trợ cấp BHXH cho người lao động, cung cấp tài liệu, thông tin về người lao động cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền… Như vậy, người sử dụng lao động là một cầu nối giữa người lao động và các cơ quan thực hiện chức năng BHXH. Việc người sử dụng lao động thực hiện đúng trách nhiệm của mình sẽ làm cho hoạt động BHXH nhịp nhàng, và liên tục.
Nhận thức của người lao động
Người lao động là chủ thể quan trọng của hoạt động BHXH. Việc có mặt của người lao động mới làm cho hoạt động BHXH trở thành một hoạt động trong xã hội. Nhận thức của người lao động có ảnh hưởng tới việc thực hiện các văn bản luật về BHXH, việc thực thi các chính sách BHXH. Hoạt động BHXH là hoạt động điều chỉnh các hành vi của các đối tượng BHXH. Người lao động là đối tượng hàng đầu trong hoạt động đó. Việc nâng cao nhận thức của người lao động đối với hoạt động BHXH, một mặt giúp cho hoạt động BHXH được thực hiện một cách chôi chảy, mặt khác giúp bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động.
Quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH.
Chưa có khái niệm cụ thể hoặc định nghĩa chính xác về quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH song từ việc làm rõ các khái niệm ở phần trên cùng với một số văn bản có đề cập đến quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH ta có thể đưa ra những đặc trưng cơ bản về quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH như sau:
Quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH là quá trình nhà nước sử dụng trong phạm vi quyền lực của mình tác động có tổ chức và điều chỉnh vào các quan hệ nảy sinh trong hoạt động BHXH nhằm đảm bảo cho hoạt động BHXH diễn ra theo đúng quy định của pháp luật, và thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ của BHXH.
Quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH là một quá trình từ việc xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về BHXH; Tuyên truyền, phổ biến, chế độ, chính sách pháp luật về BHXH; Tổ chức thực hiện chiến lược, chế độ, chính sách về BHXH đến việc tổ chức bộ máy thực hiện cũng như thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về BHXH
Đặc điểm quản lý nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã hội
Từ khái niệm quản lý nhà nước nêu trên ta có thể nêu ra một số đặc điểm riêng của quản lý nhà nước trong hoạt động BHXH như sau:
Nhà nước là chủ thể tổ chức và quản lý các hoạt động BHXH trong nền kinh tế thị trường
Xuất phát từ tính phức tạp, năng động và nhạy cảm của nền kinh tế thị trường đòi hỏi mang tính quyền lực nhà nước để tổ chức và điều hành các hoạt động BHXH. Chủ thể ấy chính là nhà nước mà cụ thể hơn là các cơ quan nhà nước, các tổ chức và cá nhân được nhà nước trao quyền. Để hoàn thành sứ mệnh của mình nhà nước phải xây dựng, tổ chức và quản lý các hoạt động BHXH.
Pháp luật là cơ sở và là công cụ quản lý hàng đầu, công cụ không thể thay thế do xuất phát từ nhu cầu khách quan trong nền kinh tế thị trường để nhà nước tổ chức và quản lý các hoạt động BHXH nói riêng và hoạt động kinh tế – xã hội nói chung.
Trong nền kinh tế thị trường các quan hệ kinh tế nói chung, các quan hệ BHXH nói riêng diễn ra phức tạp và đa dạng đòi hỏi sự quản lý của nhà nước. Để quản lý được nhà nước phải sửa dụng đến hệ thống các công cụ như: Luật, các văn bản luật, các công cụ cưỡng chế… Luật và các văn bản luật nhà nước ban hành mang tính chuẩn mực. Những quy tắc sử sự có tính bắt buộc chung được nhà nước sử dụng như một công cụ hữu hiệu nhất và không thể thiếu trong việc quản lý các hoạt động kinh tế – xã hội cũng như các hoạt động BHXH.
Sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động BHXH đòi hỏi có một bộ máy thực hiện các hoạt động BHXH mạnh, có hiệu lực và hiệu quả và một hệ thống pháp luật về BHXH đồng bộ hoàn chỉnh.
Kinh Tế Học: Khái Niệm Và Nguyên Lý
Kinh tế học là một bộ môn khoa học xã hội giúp cho con người hiểu về cách thức vận hành của nền kinh tế nói chung và cách thức ứng xử của từng chủ thể tham gia vào nền kinh tế nói riêng. Vấn đề khan hiếm nguồn lực yêu cầu các nền kinh tế hay các đơn vị kinh tế phải lựa chọn. Các Nhà Kinh tế cho rằng: Kinh tế học là “khoa học của sự lựa chọn”. Kinh tế học tập trung vào việc sử dụng và quản lý các nguồn lực hạn chế để đạt được thỏa mãn tối đa nhu cầu vật chất của con người. Đặc biệt, kinh tế học nghiên cứu hành vi trong sản xuất, phân phối và tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trong thế giới có nguồn lực hạn chế.
Thực tế, nguồn lực được phân bổ không phải chỉ do nhà hoạch định duy nhất của chính phủ trung ương, mà còn thông qua sự tác động qua lại của hàng triệu hộ gia đình và doanh nghiệp. Do vậy, kinh tế học cần tìm hiểu xem mọi cá nhân ra quyết định thế nào, quyết định làm việc bao nhiêu, mua cái gì, tiết kiệm như thế nào và khoản tiết kiệm đó đầu tư ra sao. Kinh tế học cũng cần nghiên cứu, phân tích làm thế nào mà rất nhiều người mua cùng một sản phẩm lại có thể cùng nhau tạo ra một mức giá duy nhất và một lượng hàng ổn định. Mục tiêu cuối cùng, kinh tế học phải phân tích được các lực lượng và xu thế ảnh hưởng đến nền kinh tế với tư cách tổng thể, tốc độ tăng trưởng của thu nhập bình quân, thất nghiệp và sự gia tăng của giá cả.
10 nguyên lý của kinh tế học:
Nền kinh tế không có gì là bí hiểm cả, xét cho cùng, khái niệm này được dùng để chỉ “một nhóm người tác động qua lại với nhau trong cuộc đấu tranh sinh tồn”. Quy cho cùng, thì hoạt động của nền kinh tế chẳng qua chỉ là tác động tổng hợp hoạt động của các cá nhân cấu thành nền kinh tế.
Ví dụ, việc quyết định đi học đại học: Ích lợi của cách hành động này là giàu thêm kiến thức và có cơ hội có được công việc làm tốt hơn trong suốt cả cuộc đời. Thế còn chi phí của nó là gì? Nó chính là tổng cộng các khoản tiền phải trả để có được việc học hành này (học phí, tài liệu, sinh hoạt phí,…). Nhưng tổng số tiền đó thực sự chưa phải là toàn bộ những gì bạn phải từ bỏ để theo học đại học.
Ví dụ trên cho thấy:
Thứ nhất, nó bao gồm cả những thứ không thực sự là chi phí cho việc học đại học. Kể cả không phải học đại học, người ta vẫn phải chi phí sinh hoạt, vẫn phải chi cho ăn uống, chỗ ở. Tiền ăn uống ở trường đại học chỉ trở thành chi phí cho việc học đại học khi nó cao hơn ở những nơi khác. Cũng có khi, sinh hoạt phí ở trường đại học có thể rẻ hơn những nơi khác – Trường hợp này, số tiền tiết kiệm được trở thành ích lợi cho việc học đại học.
Thứ hai, nó bỏ qua khoản chi phí lớn nhất cho việc học đại học là thời gian của việc học. Khi dành một khoảng thời gian để nghe giảng, đọc tài liệu và viết tiểu luận, người ta không thể sử dụng nó để làm việc khác. Nhiều người hiểu rằng tiền lường phải từ bỏ do không đi làm để đi học đại học là khoản chi phí lớn nhất cho việc học đại học.
Chi phí cơ hội (opportunity cost) của một thứ là thứ mà bạn phải từ bỏ để có được nó. Khi quyết định bất kỳ việc gì (chẳng hạn đi học đại học), người ra quyết định phải xem xét đến chi phí cơ hội gắn với các hành động có thể thực hiện. Chi phí cơ hội của các vận động viên thể thao ở lứa tuổi sinh viên có thể rất cao – họ có thể kiếm được rất nhiều tiền nếu bỏ học, để chơi các môn thể thao nhà nghề. Đương nhiên, mọi người hiểu rằng, ích lợi của việc học đại học là quá nhỏ so với chi phí.
Nhiều trường hợp, mọi người đưa ra được quyết định tối ưu nhờ tính đến điểm cận biên; bằng cách so sánh ích lợi cận biên và chi phí cận biên.
Nguyên lý 4: Con người phản ứng lại các kính thích:
Con người ra các quyết định dựa trên sự so sánh chí phí và ích lợi, nên hành vi của họ có thể thay đổi khi chi phí, ích lợi hoặc cả hai thay đổi
Thúc đẩy hiệu quả và công bằng của xã hội là hai nguyên nhân chủ yếu để chính phủ can thiệp vào nền kinh tế. Nghĩa là, hầu hết các chính sách đều nhằm vào mục tiêu vừa làm cho chiếc bánh kinh tế lớn lên và vừa làm thay đổi cách thức phân chia chiếc bánh đó.
Hầu hết sự khác biệt về mức sống có nguyên nhân ở sự khác nhau về năng suất lao động của mỗi quốc gia (số lượng hàng hóa được làm ra trong mỗi một giờ lao động của một công nhân). Ở những quốc gia, người lao động sản xuất ra được lượng hàng hóa và dịch vụ lớn hơn trong một đơn vị thời gian, thì hầu hết người dân được hưởng mức sống cao; còn những quốc gia có năng suất kém hơn, thì hầu hết người dân phải chịu cuộc sống khó khăn. Thực chất, tốc độ tăng năng suất lao động của một quốc gia quyết định tốc độ tăng thu nhập bình quân của quốc gia đó.
Lạm phát: Sự gia tăng của mức giá chung
Trong dài hạn, nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát chính là sự gia tăng quá mức của lượng tiền làm cho tiền mất giá. Khi Chính phủ phát hành ra một lượng tiền lớn, giá trị của tiền sẽ giảm.
Nếu lạm phát như vậy, thì tại sao đôi khi các nhà hoạch định chính sách lại gặp rắc rối trong việc chèo lái con thuyền kinh tế? Một lý do là mọi người cho rằng chính sách cắt giảm lạm phát thường gây ra sự gia tăng tạm thời của thất nghiệp. Đồ thị minh họa cho sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp được gọi là đường phillips (Phillips curve).
Lịch sử ra đời và phát triển của kinh tế học: 3 giai đoạn
Đặc điểm thực tiễn: Nền kinh tế của các nước TBCN phát triển ở giai đoạn tự do cạnh tranh, hầu hết các thị trường đều đạt trạng thái cân bằng.
Đặc điểm lý luận: Nhà kinh tế học người Anh Adam Smith với lý thuyết bàn tay vô hình : Thị trường là lực lượng duy nhất có thể điều tiết nền kinh tế. Kinh tế học vi mô ra đời
Đại khủng hoảng kinh tế (Great Depression 1929 – 1933), sự sụp đổ của TTCK Mỹ (Wall Street) vào năm 1929 khiến lý thuyết Adam Smith bị nghi ngờ.
Đặc điểm lý luận: Nhà kinh tế học người Anh J.M.Keynes cho rằng: Chính phủ là lực lượng duy nhất có thể điều khiển được nền kinh tế (bàn tay hữu hình). Kinh tế học vĩ mô ra đời.
Đặc điểm thực tiễn: nền kinh tế các nước TBCN liên tục rơi vào các cuộc khủng hoảng kinh tế. Sự can thiệp của chính phủ (bàn tay hữu hình) đôi khi trở nên vô hiệu.
Đặc điểm lý luận: Nhà kinh tế học Paul Samuelson cho rằng: muốn điều tiết nền kinh tế phải sử dụng cả hai tay (bàn tay vô hình và hữu hình) (Kinh tế học vĩ mô tổng hợp).
Khủng hoảng Đông Á 1997
Khủng hoảng tài chính Mỹ và thế giới 2008 – 2010
Khủng hoảng nợ công châu Âu (từ 2010)
Kinh tế học vi mô nghiên cứu các quyết định của các cá nhân và doanh nghiệp và các tương tác giữa các quyết định này trên thị trường. Kinh tế học vi mô giải quyết các đơn vị cụ thể của nền kinh tế và xem xét một cách chi tiết cách thức vận hành của các đơn vị kinh tế hay các phân đoạn của nền kinh tế.
Mục tiêu của kinh tế học vi mô nhằm giải thích giá và lượng của một hàng hóa cụ thể. Kinh tế học vi mô còn nghiên cứu các quy định, thuế của chính phủ tác động đến giá và lượng hàng hóa và dịch vụ cụ thể. Chẳng hạn, kinh tế học vi mô nghiên cứu các yếu tố nhằm xác định giá và lượng xe hơi, đồng thời nghiên cứu các quy định và thuế của chính phủ tác động đến giá cả và sản lượng xe hơi trên thị trường.
Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu nền kinh tế quốc gia và kinh tế toàn cầu, xem xét xu hướng phát triến và phân tích biến động một cách tổng thể, toàn diện về cấu trúc của nền kinh tế và mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của nền kinh tế.
Mục tiêu phân tích của kinh tế học vĩ mô nhằm giải thích giá cả bình quân, tổng việc làm, tổng thu nhập, tổng sản lượng sản xuất. Kinh tế học vĩ mô còn nghiên cứu các tác động của chính phủ như thu ngân sách, chi tiêu chính phủ, thâm hụt ngân sách lên tổng việc làm và tổng thu nhập. Chẳng hạn, kinh tế học vĩ mô nghiên cứu chi phí sống bình quân của dân cư, tổng giá trị sản xuất, thu chi ngân sách của một quốc gia.
Kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô là hai bộ phận cấu thành quan trọng của môn kinh tế học, có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Mối quan hệ này cho thấy rằng, trong thực tiễn quản lý kinh tế, cần thiết phải giải quyết tốt các vấn đề kinh tế trên cả hai phương diện vi mô và vĩ mô. Nếu chỉ tập trung vào những vấn đề vi mô như tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp mà không có sự điều tiết của chính phủ, thì không thể có một nền kinh tế thực sự phát triển ổn định, bình đẳng và công bằng.
Kinh tế học thực chứng: (positive analysis) mô tả và phân tích các sự kiện, những mối quan hệ trong nền kinh tế. Kinh tế học thực chứng trả lời cho câu hỏi “Là gì? Là bao nhiêu? Là như thế nào?”.
Cập nhật thông tin chi tiết về Khái Niệm Quản Lý Là Gì? Vì Sao Phải Hiểu Khái Niệm Quản Lý trên website Nhatngukohi.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!